Điện Biên Phủ – Những khía cạnh quốc tế

Chiến dịch Điện Biên Phủ nằm trong dòng chảy của Chiến tranh Lạnh, chịu sự chi phối của trật tự thế giới hai cực. Chiến tranh Đông Dương bấy giờ thực chất đã bị quốc tế hóa. Vì vậy, bản chất chiến tranh Pháp – Việt (1946-1954) đã bị chuyển hóa, không còn đơn thuần là cuộc chiến song phương, mà là chiến tranh đa phương. Bằng những chứng cứ lịch sử, bài viết chỉ ra sự viện trợ quân sự của Mỹ cho Pháp vì sự tồn vong của cứ điểm Điện Biên Phủ, là nhằm chống lại chủ nghĩa Cộng sản. Còn viện trợ của khối Xô – Trung cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng mang “tiêu chuẩn kép”: vừa ủng hộ sự nghiệp giải phóng dân tộc của Việt Nam chống thực dân Pháp, vừa vì mục tiêu chống Mỹ và các lực lượng đồng minh Mỹ. Trong khi độc lập dân tộc là mục tiêu tối hậu của người Việt Nam lúc bấy giờ.

Giới thiệu

Từ sau năm 1954, Điện Biên Phủ trở thành một thuật ngữ trong từ điển chiến tranh. Do chiến thắng Điện Biên Phủ bấy lâu
nay được xem là một sự kiện đặc biệt quan trọng, có tính quyết định đối với công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của Việt Nam, giai đoạn 1945-1954; và vừa được xem là nguồn khích lệ, động viên lớn đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Tầm vóc của chiến thắng Điện Biên Phủ được một số học giả so sánhvới các chiến dịch lớn như Waterloo năm 1815 ở châu Âu và Stalingrad trong Đại chiến thế giới lần II, vốn là những trận đánh có ý nghĩa quyết định xu thế chiến cuộc (Jules Roy, 1963; Bernard Fall, 1962). Mặc dù đây là cuộc chiến tranh giữa một dân tộc da vàng với những kẻ thực dân da trắng, nhưng việc tập trung một khối lượng khá lớn vũ khí, khí tài hiện đại, số lượng binh sĩ đôi bên và nghệ thuật chỉ huy chiến dịch khiến người ta nghĩ Điện Biên Phủ mang hình thái chiến tranh châu Âu. Nhìn chung, các nghiên cứu từ trước tới nay thường chú ý đến khía cạnh quân sự của chiến thắng Điện Biên Phủ; khía cạnh chính trị cũng được bàn tới song khá mờ nhạt, nhất là từ góc độ địa chính trị quốc tế. 

Bài viết này không đi sâu vào khía cạnh quân sự của chiến thắng Điện Biên Phủ 1954, mà chú ý đến những khía cạnh chính trị của sự kiện; bằng cách đặt nó trong dòng chảy liên tục của lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới. Cách tiếp cận này cho phép cái nhìn đa chiều đối với sự kiện Điện Biên Phủ, làm nổi rõ những nhân tố quốc tế vốn chưa được xem là một phần bản chất của sự kiện. Nhìn lại lịch sử thời kỳ này, thì “câu chuyện Điện Biên Phủ” trong tư duy chiến lược của các tướng lĩnh và chính khách phương Tây gắn liền với bối cảnh Chiến tranh Lạnh và cuộc đối đầu Đông – Tây vừa khởi động trước đó không lâu.

Từ cách tiếp cận sử học, bài viết điểm lại những sự kiện quốc tế quan trọng làm thay đổi tình trạng địa chính trị ở châu Á, dẫn đến sự thay đổi lập trường của một số nước lớn, tác động mạnh mẽ đến tình hình Đông Dương và Việt Nam từ sau 1950. Cách tiếp cận quan hệ quốc tế cho thấy sự tập hợp lực lượng đối lập trong một thế giới lưỡng cực ở giai đoạn đầu tại châu Á, liên quan đến cuộc kháng chiến chống Pháp của Việt Nam, từ đó chỉ ra những khía cạnh quốc tế liên quan đến chiến dịch Điện Biên Phủ.

1. Điện Biên Phủ – Sự thay đổi lập trường của Mỹ về chiến tranh Đông Dương

Ngay sau khi Chiến tranh thế giới thứ II kết thúc, trải qua các hội nghị Tam cường (Xô, Mỹ, Anh) từ Hội nghị Teheran (1943),
Yalta (2/1945) và Potsdam (8/1945), hai siêu cường quốc Xô – Mỹ đã hoàn tất việc phân chia ảnh hưởng quốc tế.

Tại châu Á, cuộc tranh giành ảnh hưởng Xô – Mỹ thực sự bắt đầu từ Trung Quốc. Việc chính quyền Truman quyết định giúp
Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch trong cuộc nội chiến với Đảng Cộng sản Trung Quốc những năm 1946-1949, đã buộc Liên Xô phải lựa chọn Đảng Cộng sản Trung Quốc làm đối tượng ủng hộ. Có lẽ, đây là sự kiện quan trọng dẫn đến việc Tổng thống Truman phải tuyên bố trước Quốc hội Mỹ ngày 12/3/1947 về sứ mạng lãnh đạo “thế giới tự do” của nước Mỹ, nhằm chống lại “sự đe dọa của chủ nghĩa Cộng sản” và “sự bành trướng của Liên Xô”.

Tháng 10/1949, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời. Địa chính trị châu Á – Thái Bình Dương hoàn toàn thay đổi. Người Mỹ và phương Tây nhìn ra sự hình thành trục chiến lược Trung – Xô nhằm kiểm soát vùng châu Á – Thái Bình Dương, khu vực mà hơn một trăm năm trước Mỹ đã tốn nhiều công sức buộc một số quốc gia trong khu vực phải “mở cửa” cho hoạt động thương mại của họ. Không còn gì để nghi ngờ, sự xuất hiện của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã làm chiến lược “ngăn chặn” (containment) chủ nghĩa Cộng sản ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ bị đe dọa. Chỉ trong năm 1949, việc để mất Trung Hoa vào tay Đảng Cộng sản và mất độc quyền vũ khí nguyên tử (Liên Xô thử thành
công bom nguyên tử tháng 7/1949) đã làm cho chính giới Mỹ và phương Tây choáng váng. Từ mục tiêu giải giáp quân đội Nhật, Đức, triệt tiêu chủ nghĩa phát xít, Mỹ và đồng minh cho phép 2 nước “cựu thù” này tái vũ trang hạn chế để xây dựng đồng minh trong điều kiện mới. Vì thế, sau năm 1949, trọng tâm chiến lược quân sự của Mỹ tại châu Á – Thái Bình Dương đã được mở rộng từ Đông Bắc Á xuống Đông Nam Á. 

Tiếp theo là cuộc chiến tranh trên bán đảo Triều Tiên (1950- 1953), nổ ra đúng vào thời điểm cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam đi vào giai đoạn thắng lợi cuối cùng. Song, dưới cái nhìn ý thức hệ, nhiều người Mỹ lại hiểu rằng chiến tranh Việt Nam và Triều Tiên là “Hai cuộc xung đột theo mỗi cách khác nhau. Nhưng rõ ràng mỗi xung đột đều có vị trí trong một tổng thể phức tạp mang tính chính trị và chiến lược. Chúng đều chia sẻ một sự kiện căn bản. Mỗi cái là kết quả từ cuộc bành trướng của thế lực Xô Viết tới khu vực, đẩy vệ tinh của họ về phía trước, lợi dụng để chống lại phương Tây và chủ nghĩa quốc gia…” (Jacques Soustelle, 1950).

Những biến cố đó đã làm thay đổi lập trường của Mỹ đối với cuộc chiến ở Đông Dương. Nếu như năm 1945, Mỹ đã từng có thái độ nước đôi: vừa thừa nhận vị thế và quyền lợi của Pháp ở Đông Dương, vừa phê phán việc duy trì chế độ thực dân lỗi thời của Pháp ở đây (The New York Time, 1971), nghĩa là vẫn nhìn Đông Dương như những quốc gia trong khối Liên hiệp Pháp, thì từ khi Pháp quay trở lại tái chiếm Đông Dương, Mỹ chuyển sang giữ lập trường trung lập. Nhưng sau 1950, quan điểm về Đông Dương của Mỹ đã căn bản chuyển hướng – tức là xem Đông Dương như một vùng chiến lược để ngăn chặn chủ nghĩa Cộng sản. Từ chỗ phê phán Pháp tiến hành cuộc chiến tranh thực dân trái đạo lý, Mỹ đã biến nó thành một phần của cuộc chiến tranh chống chủ nghĩa Cộng sản trên phạm vi toàn thế giới.

Cho nên đầu tháng 2/1950, nghĩa là chỉ một tuần sau khi Liên Xô công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (30/1), Mỹ cũng công nhận Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại. Từ đây, cuộc chiến tranh Đông Dương (lần I) không đơn thuần còn là cuộc chiến tranh Pháp – Việt, mà đã được quốc tế hóa. Chính sách của Mỹ và các nước lớn từ đó về sau đều ảnh hưởng trực tiếp đến cục diện cuộc chiến ở Đông Dương nói chung và chiến dịch Điện Biên Phủ nói riêng. Như thế, cái gạch nối giữa Điện Biên Phủ với chiến lược “Ngăn chặn” chủ nghĩa Cộng sản của Mỹ đã được thiết lập. 

2. Điện Biên Phủ – Những dính líu của Mỹ và phương Tây

Vào năm 1950, Bộ tham mưu liên quân Mỹ đã đưa ra một văn kiện mang tên “Đánh giá tầm quan trọng của Đông Nam Á”; trong đó người Mỹ đã nhìn nhận Đông Nam Á như là điểm then chốt để ngăn ngừa chủ nghĩa Cộng sản tràn xuống từ Nhật Bản đến tận Ấn Độ. Trong sự tưởng tượng dồi dào của người Mỹ thời điểm đó, ảnh hưởng của khối Trung – Xô đang lan tỏa mạnh mẽ xuống vùng châu Á – Thái Bình Dương, khiến giới lãnh đạo Mỹ đưa ra học thuyết Domino, coi rằng sự sụp đổ của Đông Dương sẽ kéo theo phản ứng dây chuyền khắp vùng Đông Nam Á, đến tận Úc châu. Có thể thấy quan điểm này qua lời phát biểu của Tổng thống Eisenhower trong cuộc họp báo ngày 5 tháng 4 năm 1954: “Nhưng khi chúng ta đối diện với một khả năng có thể tuần tự, sự mất Đông Dương, Thái Lan, bán đảo Mã Lai và Indonesia tiếp theo; thì chúng ta bắt đầu nói về một khu vực không chỉ làm tăng gấp bội những bất lợi mà chúng ta sẽ phải hứng chịu qua việc mất mát vật chất, tài nguyên, mà còn nói về hàng triệu, hàng triệu con người… cuối cùng (là) vị trí địa – chính trị đã có (của khu vực), vì thế làm được rất nhiều việc. Điều đó làm quay trở lại cái gọi là chuỗi đảo phòng thủ Nhật Bản, Đài Loan, Philippines và đến tận phía Tây, dẫn đến đe dọa cả Úc châu và Tân Tây Lan… Như vậy, kết cục mất mát có thể là mở rộng đến cả thế giới Tự do” (Eisenhower Press Conference, 1954).

Nhưng bấy giờ Pháp đang sa lầy trong chiến tranh Đông Dương. Để giúp Pháp trở thành con đê ngăn chặn làn sóng cộng sản tràn xuống Đông Nam Á, Chính phủ Mỹ quyết định viện trợ cho Pháp tại Đông Dương. Tính ra, từ năm 1952 trở đi, viện trợ của Mỹ cho chiến tranh Đông Dương của Pháp chiếm tỷ trọng ngày càng lớn; cụ thể: năm 1952 là 200 tỷ france, chiếm 33,9% tổng chiến phí tại Đông Dương; năm 1953 – 285 tỷ france, chiếm 42% tổng chiến phí tại Đông Dương; năm 1954 – 555 tỷ france, chiếm 78% tổng chiến phí tại Đông Dương (The New York Time, 1971). 

Vào tháng 5/1953, Chính phủ Pháp triệu hồi Henri Navarre – viên tướng đang giữ chức Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh lục quân Trung Âu thuộc NATO, về làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp tại Đông Dương. Tình hình Đông Dương bấy giờ đã được tướng Navarre mô tả như sau: “Việt Minh bây giờ là một nhà nước thực sự. Họ kiểm soát hoàn toàn hơn một nửa nước Việt Nam, và ngoài ra, bằng một chính quyền bí mật, họ còn nắm được cả những vùng về lý thuyết là dưới quyền kiểm soát của chúng tôi mà ở đấy chính quyền của chúng tôi đã bị họ vô hiệu hóa… Ở Lào và Campuchia, những phần tử thân Việt Minh cũng kiểm soát được những vùng rộng lớn. Bức tranh vẽ lên về phía chúng tôi, than ôi, lại trái ngược hẳn…” (Henri Navarre, 2004).

Vào tháng 7/1953, Navarre đưa ra một kế hoạch lớn nhằm đảo ngược tình thế, được Hội đồng Quốc phòng thông qua và đồng minh Mỹ ủng hộ. Trên diễn đàn Quốc hội Pháp ngày 23/10/1953, Thủ tướng Laniel đã thông báo rõ rằng “kế hoạch Navarre chẳng những được Chính phủ Pháp mà cả những người bạn Mỹ tán thành” (Lê Đức Anh, 2004). Qua kế hoạch này, Tổng thống Mỹ Eisenhower đã hình dung ra một chiến thắng quan trọng của Pháp ở Đông Dương vào mùa hè 1955 (Dwight D. Eisenhower, 1956). Ông cử Phó Tổng thống Nixon sang Việt Nam vào hạ tuần tháng 11/1953 để khuyên giải Pháp quyết tâm giành chiến thắng quân sự đến cùng, mà không cần thương lượng hòa bình với Cộng sản (Michael Mclear, 1984).

Ngày 20/11/1953, Navarre đã chọn Điện Biên Phủ để xây dựng tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, với ý đồ lôi kéo
bộ đội chủ lực Việt Minh đến để tiêu diệt. Ít ngày sau, Chính phủ Mỹ đã chỉ thị cho tướng John O’Daniel – Tư lệnh quân đội Mỹ tại Thái Bình Dương, Thomas J.H. Trapell – chỉ huy Phái bộ Cố vấn viện trợ quân sự Mỹ ở Đông Dương cùng một Ủy ban thanh tra đến Điện Biên Phủ để thị sát. Sau khi mục kích vị trí và cách bố phòng của tập đoàn cứ điểm, phái đoàn thanh tra Mỹ đã khẳng định ưu thế không quân của Pháp và sự đảm bảo tiếp tế đường hàng không cho tập đoàn cứ điểm trong trường hợp bị đối phương tấn công.

Khi chiến dịch Điện Biên Phủ đã mở màn, thì sự giúp đỡ quân sự của Mỹ cho Pháp ở Đông Dương càng trở nên cấp tập. Chính phủ Mỹ viện trợ khẩn cấp cho Pháp thêm hàng trăm máy bay chiến đấu và máy bay vận tải, do các phi công Mỹ lái để lập cầu hàng không Hà Nội – Điện Biên Phủ (US News and World Reports, 1954). Như vậy, không phải đợi đến trận “Điện Biên Phủ trên không” tháng 12/1972 sau này, phi công Mỹ mới có dịp bay trên bầu trời Hà Nội.

Sau khi tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ chịu đựng cuộc tấn công đợt I của bộ đội Việt Minh, thì vào ngày 20/3/1954, Tổng tư lệnh quân đội Pháp – tướng Paul Ély – đã thông báo cho Tổng thống Eisenhower về tình hình nguy khốn của quân viễn chinh Pháp tại Đông Dương; cho rằng Mỹ cần can thiệp quân sự trực tiếp vào Đông Dương mới có thể cứu vớt được quân viễn chinh Pháp khỏi nguy cơ thảm bại; bằng không, chắc chắn quân Pháp phải đàm phán với Việt Minh (Mc Turnan Kalin, J. Lewis).

Bấy giờ, Tổng thống Eisenhower đã chỉ thị cho Đô đốc Arthur W. Radford, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ lên kế hoạch mang tên “Chiến dịch chim kên kên” (Operation Vulture) dùng bom (kể cả bom nguyên tử chiến thuật) oanh kích Điện Biên Phủ. Ông cũng cử tướng Partridge – Tư lệnh không quân Mỹ ở Đông Nam Á, tướng Caldara – chỉ huy lực lượng máy bay ném bom Mỹ ở Viễn Đông, Đô đốc Hopwood – Tham mưu trưởng Hạm đội 7 sang Việt Nam để bàn bạc cùng Tổng ủy viên Dejean và tướng Navarre phương cách can thiệp quân sự.

Nhưng, việc đưa quân đội vào Đông Dương cứu nguy cho Pháp cần được sự ủng hộ của đồng minh và sự chấp thuận của Quốc hội Mỹ. Phía Anh Quốc có thể tham gia vào cuộc dàn xếp an ninh tập thể, nhưng không muốn dính líu trực tiếp vào một cuộc chiến không mấy khả năng chiến thắng và xa vời với quyền lợi của họ. Ngoại trưởng Anh Eden cho rằng: việc can thiệp quân sự [của Mỹ và phương Tây] sẽ không hiệu quả, rằng điều đó sẽ phá vỡ các cơ hội đàm phán tại Giơ-ne-vơ và có thể dẫn đến một cuộc chiến tranh tổng lực ở châu Á (The New York Time, 1971b). Tương tự đối với Australia, Ngoại
trưởng Casey còn nói thêm là cuộc can thiệp sẽ lôi phương Tây vào những xung đột lớn hơn với Trung cộng; và dù sao cũng không ngăn nổi sự thất thủ của Điện Biên Phủ (Statement by R. Casey, 1954).

Trong giới chính khách Mỹ, đặc biệt là Hội đồng An ninh Quốc gia (National Security Council), nhiều ý kiến không đồng
tình với phe tổng thống. Trước tình thế bất lợi như vậy, ngày 3/4/1954 Eisenhower đành phải quyết định từ bỏ kế hoạch phiêu lưu quân sự trên đây, mặc dù Chính phủ Pháp vẫn một mực yêu cầu Mỹ can thiệp. Tại phiên họp Quốc hội Mỹ ngày 6/4/1954 tuyệt đại đa số nghị sĩ của hai đảng Cộng hòa và Dân chủ đều phản đối sự can thiệp quân sự của Mỹ vào Đông Dương (Bernard B. Fall, 1967). Đến 29/4/1954, Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ đã quyết định tạm đình chỉ mọi hoạt động viện trợ quân sự cho Pháp.

Thực ra, việc ngừng can thiệp vũ trang của Mỹ vào Đông Dương khi Điện Biên Phủ sắp thất thủ nằm trong ý đồ hất cẳng Pháp khỏi địa bàn xung yếu này, nhằm tạo ra vành đai liên minh chống cộng, nối liền Đông Bắc Á với Đông Nam Á; chứ không phải vì lo sợ xung đột trực tiếp với “Trung Hoa Cộng sản”. Tướng Navarre đã viết trong hồi ký của ông với một vẻ cay đắng như sau: “Nước Pháp, các quốc gia liên kết [tức ba nước Đông Dương – NND] và nước Mỹ hình thành một liên minh chống Việt Minh, nhưng họ lại không cùng mục đích. Đối với Mỹ, giống như ở Triều Tiên, mục đích của họ là ngăn chặn chủ nghĩa Cộng sản ở Đông Nam Á…” (Henri Navarre, 2004, p. 15). Trong khi đó, mục đích người Pháp là muốn thông qua chiến tranh Đông Dương để bảo toàn chế độ thực dân của họ ở đây.

3. Điện Biên Phủ – Nhân tố Liên Xô, Trung Quốc và tầm nhìn dài hạn của họ

Đối với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chiến thắng Biên giới 1950 đã mở ra hành lang thông với Trung Quốc, Liên Xô và hệ
thống xã hội chủ nghĩa. Từ đây, sự ủng hộ quốc tế về chính trị cũng như viện trợ quốc tế về quân sự đối với cuộc kháng chiến chống Pháp và can thiệp Mỹ của nhân dân Việt Nam mới thực sự bắt đầu. Chỉ trong tháng 1/1950, cả Trung Quốc và Liên Xô đều ra tuyên bố công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về ngoại giao; tiếp theo là sự công nhận ngoại giao của các nước dân chủ Đông Âu và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đây là một thắng lợi chính trị vô cùng quan trọng, “sẽ là cái đà cho những thắng lợi quân sự sau này” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6).

Từ thời điểm đó trở đi, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của chúng ta, ngoài tính chất độc lập dân tộc còn mang thêm tính chất ý thức hệ tư tưởng quốc tế. Việc công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về ngoại giao đã dẫn đến nguồn viện trợ quan trọng từ Trung Quốc và Liên Xô đối với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta. Chuyến viếng thăm Matxcơva của Chủ tịch Hồ Chí Minh đầu năm 1950 đã đi đến những thỏa thuận giữa Liên Xô và Trung Quốc nhằm giúp đỡ Việt Nam kháng chiến. Theo thỏa thuận này, Trung Quốc chuyển cho Việt Nam số vũ khí trang bị đủ
cho 6 tiểu đoàn phòng không (đây là số vũ khí đã sử dụng trong Chiến tranh thế giới thứ II mà Liên Xô chuyển cho Trung Quốc), Trung Quốc sẽ được Liên Xô viện trợ cho vũ khí mới; Trung Quốc sẽ cử một số cố vấn sang Việt Nam và nhận đào tạo cán bộ Việt Nam tại Trung Quốc. Riêng trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Trung Quốc đã viện trợ cho Việt Nam 1700 tấn gạo (chiếm chưa tới 10% số gạo phía Việt Nam dùng trong chiến dịch), 24 khẩu pháo 105 ly kèm 3600 viên đạn pháo, 1 tiểu đoàn DKZ 75 ly, 1 tiểu đoàn hỏa tiễn (Kachiusa) cùng 1.136 viên đạn (Hồ sơ viện trợ quốc tế, số 20, 21). Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc đóng vai trò tham mưu tích cực cho Bộ chỉ huy chiến dịch (Vũ Phong Tạo).

So với viện trợ của Mỹ cho Pháp ở Đông Dương thì số viện trợ trên không nhiều (Đinh Quang Hải, 2004). Nhưng đây là sự thể hiện niềm tin và sự công nhận của Liên Xô và Trung Quốc vào một lực lượng mới trong hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Viện trợ của họ cho Việt Nam bấy giờ thực chất đã không phải để chống Pháp – với tư cách là một tên thực dân đã suy yếu, mà chủ yếu để chống Mỹ và các lực lượng chống cộng đang trỗi dậy. Nên nhớ rằng, bấy giờ Liên Xô hầu như không có thù oán gì với Pháp; bằng chứng là hai nước đã ký hiệp ước thân thiện Xô – Pháp tháng 12/1944; phải đến tháng 5 năm 1955, nghĩa là một năm sau hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được ký kết, hiệp ước này mới bị Liên Xô hủy bỏ.

Mao Trạch Đông vốn là người có tư tưởng chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. Từ lúc quyền lực của ông còn trong trứng nước cho
đến khi nắm chính quyền, ông luôn xem Đông Nam Á như một phần lãnh thổ của quốc gia mình, cần khôi phục lại. Mao cho
rằng: “Các nước đế quốc sau khi đánh bại Trung Quốc, đã chiếm các nước phụ thuộc của Trung Quốc: Nhật chiếm Triều Tiên, Đài
Loan, Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ và Lữ Thuận. Anh chiếm Miến Điện, Butan, Hương Cảng. Pháp chiếm An Nam…”; về sau này, Mao khẳng định: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam Á, bao gồm cả miền Nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malaixia và Xingapo…” (Sách trắng Bộ ngoại giao, 1979).

Một nhà nghiên cứu gốc Trung Quốc, nhận định: bấy giờ Mao Trạch Đông nhìn nhận phong trào giải phóng dân tộc của Việt
Nam trên cả hai khía cạnh ý thức hệ và địa – chính trị. Cuộc đấu tranh này được Mao hỗ trợ mạnh mẽ chỉ vì nó là một phần của chiến lược lớn hơn của ông trong việc thiết lập một trật tự thế giới chống đế quốc. Nhưng cùng lúc Mao không sẵn sàng tách mục tiêu này ra khỏi quyền lợi của Trung Quốc để cân bằng cán cân Xô – Mỹ. Điều này thể hiện chính sách thực dụng của Mao trong chiến tranh Đông Dương (Qiang Zhai, 2000). Trong thâm tâm, chắc hẳn Mao không tin tưởng Matxcơva. Vì những chủ trương, đường lối chính trị của Matxcơva ngay từ đầu đã mang tính áp đặt đối với đồng minh của mình, hoặc có tính chất “lá mặt lá trái”. Chẳng hạn, Matxcơva đã ký với Tưởng Giới Thạch “Điều ước đồng minh hữu hảo Trung – Xô” ngày 14 tháng 8 năm 1945 nhằm tranh thủ Tưởng, trong khi vẫn ủng hộ lực lượng của Mao Trạch Đông tại Diên An (Ovola Dimirop, V. Riadanxep, 1979). Mặc dù vậy, khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời (1/10/1949) thì Liên Xô là nước đầu tiên công nhận chính thể này.

Sự chia rẽ Trung – Xô bắt nguồn từ sự khác biệt về ý thức hệ m c-xít và đường lối đấu tranh quốc tế giữa hai đảng cộng sản, trong đó chủ nghĩa quốc gia – dân tộc là cốt lõi. Trong khi Đảng Cộng sản Liên Xô luôn coi giai cấp vô sản thành thị là động lực chính của cách mạng vô sản; thì ngay từ thập niên 1930, Mao Trạch Đông cùng phe cánh của ông trong Đảng Cộng sản Trung Quốc lại cho rằng, động lực cách mạng châu Á chính là giai cấp nông dân. Từ đó, tư tưởng Mao Trạch Đông dần dần thay thế học thuyết Mác. Tại Đại hội VII Đảng Cộng sản Trung Quốc, tư tưởng Mao Trạch Đông được chính thức tuyên bố là hệ ý thức lãnh đạo của đảng này (Ovola Dimirop, V. Riadanxep, 1979). Bản thân Mao đã từng tuyên bố rằng, “học thuyết Mác – Lênin không thể ứng dụng vào các điều kiện của Trung Quốc vì Trung Quốc có những đặc thù của mình” (Phạm Bá, 2008, tr.9-25). Với lập trường trên đây, Mao Trạch Đông được xem là người đã thay đổi chủ nghĩa Mác “từ hình thức châu Âu sang hình thức châu Á”. 

Tuy nhiên, khi còn hợp tác được với nhau thì cả hai bên Xô – Trung đều cố gắng sử dụng tinh thần quốc tế vô sản như một thứ nước màu để che đậy những quyền lợi quốc gia dân tộc của mình. Cuộc kháng chiến chống Pháp và can thiệp Mỹ của nhân dân Việt Nam vì độc lập tự do của dân tộc, vì chính nghĩa đã trở thành điều kiện tốt cho sự hòa hợp Xô – Trung trong khoảng nửa đầu thập niên 1950.

4. Hội nghị Giơ-ne-vơ – Mốc mở đầu một cuộc chiến mới tại Đông Dương

Tình trạng Pháp thất thủ tại Điện Biên Phủ đã mở ra cuộc đua nước rút của một số cường quốc liên quan, muốn sắp đặt tình trạng chính trị Đông Dương sao cho lợi nhất với họ.

Về phía Mỹ, Washington chưa bao giờ tán đồng một giải pháp thương lượng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để chấm dứt
chiến tranh và vãn hồi hòa bình tại Đông Dương. Họ muốn tiếp tục quốc tế hóa chiến tranh để giành thắng lợi bằng quân sự. Trước thời điểm tấn công đợt 3 của ta tại Điện Biên Phủ, Eisenhower đã cử tướng Bedell Smith, Phó trưởng phái đoàn Mỹ tại Hội nghị Giơ-ne-vơ đến gặp Bảo Đại để lôi kéo ông này theo Mỹ, đề nghị huấn luyện và thành lập những đơn vị mới cho Quốc gia Việt Nam (Tường Hữu, 2002).

Tình thế bấy giờ buộc Bảo Đại phải chọn giải pháp ngả theo Mỹ, chấp nhận việc Mỹ thay thế Pháp huấn luyện và đào tạo quân đội của ông ta. Bảo Đại cũng phải chấp nhận việc sau này bổ nhiệm Ngô Đình Diệm – người của Washington chuẩn bị, có tinh thần chống cộng khét tiếng – vào chức vụ thủ tướng (Tường Hữu, 2002, tr.252-255). Sự bất lực của Pháp khiến Mỹ ngày càng can thiệp sâu vào nội tình Đông Dương.

Do áp lực từ Liên Xô, Anh Quốc cùng các đồng minh của Mỹ, cuối cùng Washington đành phải chấp nhận tham gia Hội nghị
Giơ-ne-vơ, nhưng đó chỉ là sự chấp nhận giả vờ để tiếp tục những thủ đoạn mới. Trong giai đoạn đầu hội nghị, Mỹ vẫn giữ quan điểm vận động liên minh, can thiệp quân sự vào Đông Dương. Ngoại trưởng Foster Dulles – Trưởng phái đoàn Mỹ tại Hội nghị Giơ-nevơ đã bỏ hội nghị để giao việc cho Thứ trưởng Ngoại giao Bedell Smith, với chỉ thị phái đoàn Mỹ không được tán thành bất cứ thỏa ước nào không phù hợp với quan điểm của họ. Vào giai đoạn kết thúc hội nghị, Mỹ đành chấp nhận việc chia cắt Việt Nam tại vĩ tuyến 17, nhưng không chịu ký vào bản tuyên bố cuối cùng của hiệp định. Ngay sau khi hội nghị kết thúc, Tổng thống Eisenhower đã tuyên bố rằng Mỹ không bị ràng buộc bởi Hiệp định Giơ-ne-vơ.

Để từng bước phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ, Mỹ đã tiến hành một loạt những công việc như triển khai kế hoạch cưỡng ép đồng bào Công giáo di cư vào Nam, thực hiện các chương trình viện trợ kinh tế, quân sự to lớn cho chính phủ Ngô Đình Diệm nhằm xây dựng trên lãnh thổ Việt Nam một chính quyền chống cộng. Mỹ cũng lập tức thành lập một liên minh quân sự dưới tên gọi “Tổ chức hiệp ước Đông Nam Á”- (SEATO)1, đặt Đông Dương vào vùng đảm bảo an ninh của khối này. Tại Thái Lan, Mỹ ráo riết xây dựng hàng loạt căn cứ quân sự – bàn đạp cho lực lượng quân đội Mỹ tại Đông Nam Á lục địa. Tất cả những động thái đó của Mỹ là sự chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh mới ở Đông Dương.

Về phía Trung Quốc, họ muốn chấm dứt chiến tranh Đông Dương bằng giải pháp theo kiểu Triều Tiên, nghĩa là chỉ đình chiến mà không có giải pháp chính trị. Làm như vậy, Trung Quốc hy vọng tạo ra một vùng đệm ngăn chặn Mỹ thế chân Pháp tại Đông Dương, tránh đụng đầu trực tiếp với Mỹ (Sách trắng, Bộ Ngoại giao, 1979, tr.26-27). Trong khi đó thì phía Việt Nam muốn thông qua hội nghị đi đến một giải pháp hoàn chỉnh, là việc đình chỉ chiến sự trên toàn cõi Đông Dương phải đi đôi với giải pháp chính trị cho Việt Nam, Lào và Campuchia trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền của mỗi nước (Sách trắng, Bộ Ngoại giao, 1979, tr.26). Thực ra, trong hội nghị này Trung Quốc đã trực tiếp đàm phán với Pháp để thỏa thuận những giải pháp cơ bản có lợi cho hai bên Trung – Pháp. Cụ thể: Trung Quốc chấp nhận Việt Nam có 2 chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Bảo Đại, công nhận Chính phủ Vương quốc Lào và Chính phủ Vương quốc
Campuchia, từ bỏ yêu cầu có đại diện Chính phủ kháng chiến Lào và Chính phủ kháng chiến Campuchia tham gia Hội nghị Giơ-nevơ, đưa vấn đề quân tình nguyện nước ngoài, kể cả quân tình nguyện Việt Nam phải rút khỏi Lào và Campuchia (Sách trắng, Bộ Ngoại giao, 1979, tr.28).

Những giải pháp trên đây của Trung Quốc tại Hội nghị Giơ-ne-vơ đã hạn chế gần hết các mục tiêu độc lập dân tộc mà chiến
thắng Điện Biên Phủ có thể đem lại cho cách mạng Việt Nam. Các giải pháp chính trị ấy của Trung Quốc, về cơ bản là phù hợp với mục tiêu của Mỹ; cả hai đều muốn chia cắt lâu dài Việt Nam, làm suy yếu dân tộc Việt Nam. Họ chỉ khác nhau ở chỗ: nước Mỹ thuộc phe chủ nghĩa tư bản, còn Trung Quốc thuộc phe chủ nghĩa xã hội.

5. Kết luận

Như vậy, Điện Biên Phủ – ở bề nổi, cái nhìn thấy – là chiến thắng quân sự to lớn; nhưng ở bề sâu, cái tàng ẩn – là mang bản
chất chính trị thời đại sâu sắc, thời đại của trật tự lưỡng cực. Người Mỹ nhìn cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp để giành lại độc lập của nhân dân Việt Nam là cuộc đấu tranh vì chủ nghĩa Cộng sản. Sự viện trợ quân sự của Mỹ cho Pháp tại Đông Dương là nhằm chống lại chủ nghĩa Cộng sản. Còn viện trợ Xô – Trung cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – suy cho cùng – không phải vì sự nghiệp giải phóng dân tộc của Việt Nam, chống thực dân Pháp; mà chủ yếu vì mục tiêu chống Mỹ và các lực lượng đồng minh Mỹ. Trong khi độc lập dân tộc là mục tiêu tối hậu của người Việt Nam lúc bấy giờ.

Chiến tranh Đông Dương bấy giờ thực chất đã bị quốc tế hóa. Điện Biên Phủ đã nằm trong dòng chảy của Chiến tranh Lạnh, chịu sự chi phối của trật tự thế giới hai cực. Vì vậy, bản chất chiến tranh Pháp – Việt đã bị chuyển hóa, không còn đơn thuần là cuộc chiến song phương; mà là chiến tranh đa phương. Địa chính trị Việt Nam và khu vực Đông Nam Á cũng thay đổi căn bản. Như thế, Điện Biên Phủ – thực chất đã mở sang trang mới của nền chính trị khu vực. Đông Nam Á từ đó chính thức bị tách đôi theo hệ thống thế giới lưỡng cực.

Song, vượt lên mọi sự toan tính quốc tế, chiến thắng Điện Biên Phủ là sự kiện lớn lao của dân tộc Việt Nam, mang tầm vóc
quốc tế vĩ đại. Điện Biên Phủ là chiến thắng của ý chí độc lập, tự do và chính nghĩa – không chỉ cho dân tộc Việt Nam – mà cho hầu hết dân tộc trên thế giới vốn chịu sự áp bức và lệ thuộc vào chủ nghĩa đế quốc. Điện Biên Phủ cũng là chiến thắng của các lực lượng hòa bình, dân chủ thế giới.

PGS.TS Nguyễn Ngọc Dung

Trường Đại học KHXH&NV – ĐHQG-HCM

Kỷ yếu hội thảo: NAM BỘ TỪ ĐIỆN BIÊN PHỦ ĐẾN HIỆP ĐỊNH GIƠ-NE-VƠ 70 NĂM NHÌN LẠI (1954-2024)

Tài liệu tham khảo
Bộ Ngoại giao. (1979). Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua, Sách trắng Bộ ngoại giao. Hà Nội: Sự thật.

Bernard B. Fall (1967), Les Deux Vietnam. Payot, Paris, pp. 263-264.

Đinh Quang Hải. (2004). “Chiến thắng Điện Biên Phủ với việc thất bại của Mỹ trong quá trình can thiệp vào cuộc chiến tranh ở Đông Dương”, Hội thảo khoa học Quốc gia Kỷ niệm 50 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ và công cuộc đổi mới phát
triển đất nước (1954-2004),
Điện Biên Phủ, ngày 7-8/3/2024.

Dwight D. Eisenhower. (1956). Mandate for Change – The White House Years 1953-1956. The American Library, New York.

Eisenhower Press Conference, 7 April 1954, in Foreign Relation of the United States, 1952 – 1954, vol 13. Indochina, pp.1280- 1281.

Lê Đức Anh. (2004). Đường lối chiến tranh nhân dân đánh bại âm mưu chiến lược của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ,
https://nhandan.vn/duong-loi-chien-tranh-nhan-dan-danhbai-am-muu-chien-luoc-cua-thuc-dan-phap-va-can-thiepmy-post464554.html.

Michael Mclear (1984). The Ten Thousand Day War. Thames Methuen, London, p.40.

US News and World Reports, March 15th, 1954.

Mc Turnan Kalin, J. Lewis (1967). The United State in Vietnam: An analysis in Depth of the History of America’s Involvement
in Vietnam
, Delta Book, p.37.

Jules Roy (1963). La Bataille de Dien Bien Phu, Rene Julliard, Paris, p.284;

Bernard Fall (1962). Indochine 1946-1962 : : Chronique d’une guerre révolutionnaire, Robert Laffont, Paris pp.325-326.
Jacques Soustelle (1950). “Indochina and Korea: One front”,
Foreign Affairs 29th, pp.56-66.

Henri Navarre. (2004). Thời điểm của những sự thật, Nguyễn Huy Cầu dịch. Hà Nội: Công An Nhân dân.

Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 6, Hà Nội: Chính trị Quốc gia, 2000.

Hồ sơ viện trợ quốc tế, số 20, 21, Tổng cục hậu cần QĐND VN.

The New York Time. (1971). Pentagon Papers – The Secret History of the Vietnam War, p.8, 10 (số viện trợ quân sự của
Mỹ cho Pháp ở Đông Dương giai đoạn 1950 – 54 là hơn 1,1 tỷ USD; xem thêm:
Viện trợ tài chính của Mỹ cho Pháp trong
chiến tranh Đông Dương 1950-1954
, hồ sơ số 23, Phông Thủ tướng, Trung tâm lưu trữ quốc gia III, tiếng Pháp).

Statement by R. Casey. (1954). Minister for External Affairs in the House of Representatives on Aug 18th, 1954. Current Notes, vol. 24, p.576.
Qiang Zhai. (2000).
China and Vietnam Wars, 1954-1975, University of North Carolina Press, Chapell Hill & London.

Ovola Dimirop & V. Riadanxep. (1979). Những trang tiểu sử chính trị của Mao Trạch Đông, Tài liệu tham khảo lưu hành nội bộ.

Tường Hữu. (2002). Những điều ít được biết về cuộc chiến tranh Việt Nam 1945-1975. Hà Nội: Công an Nhân dân.

Vũ Phong Tạo (dịch, 2009). Đại thắng Điện Biên Phủ và đoàn cố vấn Trung Quốc tại Việt Nam, https://www.qdnd.vn/ho-sosu-kien/dai-tuong-vo-nguyen-giap/dai-thang-dien-bien-phuva-doan-co-van-trung-quoc-tai-viet-nam-260874, truy cập
ngày 24/4/2024.

Phạm Bá. (2008). Hồ sơ mật đối ngoại, Hà Nội: Công an Nhân dân.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *