Chiến thắng Điện Biên Phủ là một mốc son chói lọi trong tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam cũng như lịch sử thế giới. Với ý nghĩa là chiến thắng trong sự nghiệp đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc, dấu ấn của Điện Biên Phủ năm 1954 chịu tác động sâu sắc của bối cảnh quốc tế và khu vực Đông Á trong giữa những năm 50 của thế kỷ XX. Bằng cách tiếp cận lịch sử, bài viết tập trung phân tích những nhân tố quốc tế, trọng tâm là những biến động của tình hình quốc tế và khu vực, chính sách của các nước lớn tác động đến chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ và Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 ở Việt Nam.
Đặt vấn đề
Trong lịch sử từ trước đến nay, bên cạnh phải hứng chịu những đau thương bởi sự thảm khốc do chiến tranh để lại, nhân loại cũng được chứng kiến những chiến thắng vĩ đại, đi vào lịch sử đấu tranh giải phóng của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Trong thế kỷ XX, chiến thắng Điện Biên Phủ (năm 1954) của Việt Nam nổi lên như một sự kiện lịch sử tiêu biểu, có giá trị to lớn, đánh dấu sự kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ (1945-1954), giáng đòn quyết định, đập tan ý chí xâm lược của các thế lực thực dân hiếu chiến, buộc Pháp phải ký hiệp định Giơ-ne-vơ chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình, cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, công nhận độc lập của Lào, Campuchia và rút quân về nước. Đây cũng là chiến thắng “được ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa trong thế kỷ XX và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc” (Lê Duẩn, 1970, tr.50).
Nhìn lại bảy mươi năm qua (1954-2024), chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Giơ-ne-vơ đã được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau và đứng trên nhiều lập trường, quan điểm. Để có thêm góc nhìn mới, khách quan, toàn diện, sâu sắc hơn về sự kiện “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” này, bài viết đưa ra một góc nhìn về chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 từ sự tác động của bối cảnh quốc tế và khu vực trong những năm 50 của thế kỷ XX, góp phần khẳng định về tầm vóc, ý nghĩa và sự ảnh hưởng sâu sắc của chiến thắng này đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam và phong trào đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ xã hội trên toàn thế giới.
- Bối cảnh quốc tế và khu vực Đông Á những năm 40, 50 của thế kỷ XX
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, thế giới hình thành trật tự lưỡng cực Yalta, chia thành hai phe tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa do Mỹ và Liên Xô đứng đầu. Thế giới mới trải qua một cuộc binh lửa tàn khốc nhất trong lịch sử, hàng chục triệu người chết, bị thương, phe phát xít thất bại hoàn toàn, phe đồng minh thắng trận trong đó nổi lên hai thế lực Mỹ và Liên Xô nắm thời cơ để tái cấu trúc trật tự thế giới mới sau chiến tranh. Trong những năm 1945- 1949, tình hình thế giới biến động chủ yếu diễn ra ở châu Âu và vùng phụ cận Liên Xô. Mỹ củng cố vị thế chính trị, quân sự, kinh tế vượt trội của mình, mở rộng ảnh hưởng ra các nước Tây Âu, hình thành chiến lược ngăn chặn (containment), thông qua các thể chế tài chính Ngân hàng Thế giới (World Bank), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Kế hoạch Marshall giúp các nước châu Âu khôi phục kinh tế. Vấn đề nước Đức đến cuối năm 1949 được giải quyết bằng giải pháp chia đôi nước Đức thành Cộng hòa Liên bang Đức (Tây Đức) và Cộng hòa Dân chủ Đức (Đông Đức). Hình ảnh nước Đức là biểu tượng của thời kỳ Chiến tranh lạnh, thế giới phân thành hai cực Đông và Tây. Từ năm 1949, Mỹ và các đồng minh phương Tây thành lập Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) nhằm củng cố vị thế của các nước tư bản và trở thành đối trọng với hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa.
Liên Xô một mặt tập trung khôi phục kinh tế từ đống đổ nát, đến cuối năm 1949 cơ bản hoàn thành, đồng thời củng cố tiềm lực quân sự, chế tạo thành công bom nguyên tử, phá thế độc quyền của Mỹ, đạt được thế cân bằng vũ khí chiến lược. Đồng thời Liên Xô cũng củng cố ảnh hưởng của mình ở các nước Đông Âu và một phần Trung Nam Âu, tạo thành hệ thống xã hội chủ nghĩa, liên kết với nhau trong Hội đồng Tương trợ kinh tế (SEV/CMEA) từ năm 1948 và khối quân sự Hiệp ước Warszawa từ năm 1955.
Mỹ xây dựng, triển khai hệ thống quân sự chiến lược bao vây Liên Xô thông qua khối Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) gồm các đồng minh từ Bắc Mỹ, Tây Âu đến tận Thổ Nhĩ Kỳ, hiện diện ở Iran, ủng hộ mạnh mẽ chính quyền Trung Hoa Dân quốc do Tưởng Giới Thạch đứng đầu; chiếm đóng Nhật Bản; vào Nam Triều Tiên giải giáp quân Nhật rồi ủng hộ Lý Thừa Vãn lập ra nhà nước Đại Hàn Dân quốc (tháng 8/1948), chia cắt lâu dài bán đảo Triều Tiên. Đến tháng 10/1949, cuộc nội chiến ở Trung Quốc kết thúc, lực lượng cộng sản giành thắng lợi, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời do Mao Trạch Đông đứng đầu, Tưởng Giới Thạch thất bại chạy ra Đài Loan đã làm thay đổi cục diện chiến lược ở Đông Á, làm đảo lộn vị thế chiến lược của Mỹ ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Trong thời gian này chính phủ Mỹ đã bị chỉ trích gay gắt về chính sách đối với chính phủ Trung Hoa Dân quốc của cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa, nhất là những phần tử chống cộng cực hữu, đòi phải nhanh chóng tăng cường ngăn chặn sự bành trướng của Liên Xô, Trung Quốc và các lực lượng cộng sản ở Viễn Đông.
Có thể nói, từ năm 1945 đến năm 1948 Mỹ chưa quan tâm nhiều đến Đông Nam Á. Năm 1946, Mỹ trao trả độc lập cho Philippines, thực chất là chuyển từ chính sách thực dân cũ sang chính sách thực dân mới, vẫn giữ nước này trong quỹ đạo và tầm kiểm soát của Mỹ. Bên cạnh đó, Mỹ giúp đỡ cho các nước Anh, Pháp, Hà Lan khôi phục kinh tế ở chính quốc, củng cố khối liên minh phương Tây, đồng thời hỗ trợ ở các mức độ khác nhau cho các nước này trở lại các thuộc địa ở Đông Nam Á. Với Pháp, việc Pháp quay trở lại Đông Dương, quan điểm của chính quyền H.Truman đã thay đổi so với F.D.Roosevelt, ủng hộ Pháp quay lại Đông Dương. Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ G.Marshall khẳng định Mỹ công nhận đầy đủ vị thế của Pháp, mặt khác không được bỏ qua điều hiển nhiên là Hồ Chí Minh có các mối quan hệ trực tiếp với cộng sản và Mỹ “không muốn thấy chính quyền thực dân bị thay bởi triết lý và tổ chức chính trị trực tiếp phát xuất và được kiểm soát bởi Kremlin” (W.J.Duiker, 1994, p.153).
Sau khi Đảng Cộng sản Trung Quốc giành những thắng lợi và nắm chính quyền, tháng 12/1949, Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ đã họp hai lần và thông qua hai nghị quyết số NSC-48/1 (ngày 23/12/1949) và số 48/2 (ngày 30/12/1949) về chính sách của Mỹ là phải thiết lập một vành đai ngăn chặn từ Nhật Bản, Ryukyu đến Philippines. Ngoại trưởng Mỹ G. Marshall vào đầu năm 1950 lưu ý rằng vấn đề Đông Dương không còn là vấn đề địa phương nữa, mà đã mang tầm vóc quốc tế và có thể gây phương hại cho quyền lợi của Hoa Kỳ trong vùng. Mỹ cũng ngày càng lưu tâm đến vị thế địa chiến lược của Thái Lan ở Đông Nam Á lục địa, tuy không có biên giới chung với Trung Quốc nhưng ở gần sát phía Nam nước này và có biên giới chung giáp Lào và Campuchia.
Đầu năm 1950, Tổng thống H.Truman phái đặc sứ Philip C.Jessup đến các nước Viễn Đông (trong đó có nhiều nước Đông Nam Á) để khảo sát, đánh giá tình hình. Ngày 12/02/1950, Jessup triệu tập gần 20 đại sứ Mỹ tại các nước trong khu vực này họp tại Bangkok. Tham dự hội nghị này còn có Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ W.Walton Batter Worth đặc trách khu vực Viễn Đông. Hội nghị
đánh giá ảnh hưởng của các thế lực cộng sản ở các nước Viễn Đông và Đông Nam Á, sự tăng cường giúp đỡ của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cho Chính phủ Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống Pháp. Dịp này Jessup đã gặp Thủ tướng Thái Lan Phibun Songkhram để bàn về tăng cường quan hệ Mỹ -Thái, đưa ra cam kết giúp đỡ về tài chính và vũ khí cho Thái Lan và thúc ép chính phủ Thái công nhận Quốc gia Việt Nam do Bảo Đại đứng đầu. Hội nghị này đánh dấu sự chuyển hướng chính sách Đông Nam Á của Mỹ trong Chiến tranh lạnh. Sau khi hối thúc Pháp trao quyền cho các chính phủ dân tộc ở ba nước Đông Dương vào năm 1949, ngày 07/02/1950 Mỹ tuyên bố công nhận chính phủ Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại, chính phủ Vương quốc Lào và Vương quốc Campuchia. Từ năm 1950, Mỹ công khai can thiệp vào cuộc chiến tranh Đông Dương.
Tình hình bán đảo Triều Tiên lúc bấy giờ cũng xảy ra những diễn biến căng thẳng. Ngày 25/6/1950, chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, kéo dài hơn ba năm, đến ngày 27/7/1953 mới chấm dứt. Cuộc chiến tranh này có tác động mạnh đến Đông Nam Á, khiến Mỹ càng quan tâm đến khu vực này. Mỹ và 15 nước đã tham chiến, lôi kéo một số nước như Thái Lan, Philippines gửi quân tham gia dưới ngọn cờ Liên hợp quốc. Mỹ tăng chi phí quân sự cho Pháp và tăng viện trợ quân sự cho Thái Lan. Năm 1951, Mỹ tăng cường củng cố quan hệ đồng minh với các nước Thái Bình Dương, tiến hành ký Hiệp ước an ninh với Philippines (ngày 30/8), với Australia và New Zealand, thành lập khối ANZUS (ngày 01/9) và Hiệp ước an ninh Mỹ Nhật (ngày 08/3/1951), lập nên phòng tuyến chống cộng từ Bắc bán cầu đến Nam Thái Bình Dương.
Như vậy, tính đến những năm 50 của thế kỷ XX, Mỹ đã đẩy mạnh can thiệp sâu rộng vào cuộc chiến tranh Đông Dương hòng cứu vãn tình thế thất bại của Pháp. Mặt khác, Mỹ tăng cường quan hệ và viện trợ trực tiếp cho các chính phủ dân tộc, các chế độ thân Mỹ ở Việt Nam, Lào, Campuchia nhằm tính đến tình thế chiến lược lâu dài sau khi Pháp rút khỏi.
- Chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 ở Việt Nam nhìn từ tác động của những nhân tố quốc tế
Tính hình bán đảo Đông Dương vào những năm 50 của thế kỷ XX đã có những biến chuyển mới với việc tăng cường ảnh hưởng của Pháp và can thiệp Mỹ. Cuối năm 1952, tướng Eisenhower đắc cử Tổng thống. Đầu năm 1953, Foster Dulles được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Ngoại giao. F.Dulles tuyên bố: “nếu họ (Liên Xô, Trung Quốc) nắm được bán đảo Đông Dương, Xiêm, Miến Điện, Malaya thì họ sẽ làm chủ cái gọi là bát cơm của châu Á, thì đây sẽ là một thứ vũ khí khác giúp họ mở rộng quyền kiểm soát đến Nhật Bản và cả Ấn Độ” (Chester L. Cooper, 1970, p.90). Sau đó, tại cuộc họp Hội đồng an ninh quốc gia, F.Dulles còn lưu ý rằng: “Đông Dương còn quan trọng hơn cả Triều Tiên vì kết quả cuộc chiến ở vùng đất này sẽ tác động đến cả khu vực Đông Nam Á” (The New York Times, 1974, p.135). Mùa hè năm 1953, Pháp cử Navarre sang Đông Dương. Sau khi nghiên cứu tình hình chiến sự, Navarre đưa ra kế hoạch nhằm xoay chuyển tình thế, giành thắng lợi trong vòng 18 tháng. Kế hoạch Navarre của Pháp đã được Mỹ ủng hộ mạnh mẽ, tăng thêm chi phí chiến tranh và chiến cụ, viện trợ bổ sung thêm 400 triệu đô la. Phó Tổng thống R.Nixon được phái sang Đông Dương thị sát và ủng hộ tinh thần cho quân Pháp. Chính phủ Mỹ tăng viện trợ tài chính cho Pháp ở Đông Dương tài khóa 1953-1954 lên 855 triệu đô la, dự kiến tài khóa 1954-1955 tăng đến 1.153 triệu đô la, chiếm 80% ngân sách quân sự của Pháp.
Có nhiều tiền tài, vũ khí, binh hùng, tướng giỏi, Pháp – Mỹ triển khai kế hoạch Navarre như dự kiến trên các chiến trường, rồi xây dựng cứ điểm Điện Biên Phủ với 20 tiểu đoàn, 49 cứ điểm kiên cố và huênh hoang cho rằng đây là “pháo đài bất khả xâm phạm”, thách thức Đại tướng Võ Nguyên Giáp và bộ đội Việt Minh. Nhưng từ 13/3 đến 07/5/1954, sau 56 ngày đêm chiến đấu kiên cường, gan dạ, mưu trí, bộ đội ta đã tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tướng De Castries phải đầu hàng.
Trong khi chiến sự diễn ra ác liệt, Điện Biên Phủ đang hấp hối thì Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ họp, cả Tổng thống Eisenhower và Ngoại trưởng F.Dulles, Bộ Tư lệnh Mỹ ở Thái Bình Dương tìm mọi cách cứu vãn tình thế, đô đốc Radford đề ra một kế hoạch quân sự to lớn bằng không quân mang mật danh Vulture (Vautour) can thiệp giải cứu Pháp, nhưng Mỹ cũng không kịp trở tay (Lê Phụng Hoàng, 2008, tr.90). Ngày 07/4/1954, đúng một tháng trước khi Điện Biên Phủ thất thủ, trong một cuộc họp báo, Tổng thống Eisenhower còn giải thích về học thuyết Domino: “Một khi mất Đông Dương, hậu quả là sẽ mất Burma (Myanmar), Thailand, Peninsular (Malaysia), kế đến là Indonesia… Cả dãy đảo Nhật Bản, Đài Loan, Philippines sẽ rơi và thế phòng thủ, rồi xuống phía Nam, Australia, New Zealand sẽ bị đe dọa”.
Sự thất thủ khá nhanh chóng của Pháp ở Điện Biên Phủ là thất bại nặng nề, đau đớn của Pháp trong cuộc chiến tranh Đông Dương, báo hiệu sự sụp đổ hoàn toàn của đế quốc Pháp, nhưng cũng là thất bại của Mỹ. Félix Greene trong tác phẩm Kẻ thù (The Enemy) đã chỉ rõ: “Mục tiêu của Mỹ không phải chỉ có Việt Nam và Đông Dương, mà là toàn bộ vùng Đông Nam Á vì đây là một trong những khu vực giàu có nhất thế giới, mở ra cho kẻ nào thắng trận ở Đông Dương. Đó là lý do giải thích vì sao Mỹ ngày càng quan tâm đến vấn đề Việt Nam. Đối với Mỹ đó là một khu vực phải nắm lấy bằng bất kỳ giá nào!” (Felix Greene, 1971, p.320).
Việt Nam và Đông Dương có vị thế rất quan trọng đối với Mỹ, do vậy sau Điện Biên Phủ, trong khi các cường quốc Liên Xô, Anh, Pháp, Trung Quốc và các bên Đông Dương chuẩn bị đến Hội nghị Giơ-ne-vơ thì Mỹ đã có những chần chừ, toan tính những mưu đồ riêng để thay chân Pháp. Ngoại trưởng Mỹ F. Dulles chỉ hiện diện trong phiên khai mạc hội nghị rồi về nước, để Thứ trưởng Bedell Smith thay cho đến khi kết thúc. Mỹ cũng không ký vào tuyên bố cuối cùng của hội nghị, F.Dulles chỉ thị “lập trường của Mỹ vẫn là không thương lượng và cũng sẽ không ký với khối cộng sản một tuyên bố đa phương về hội nghị Giơ-ne-vơ hoặc một hiệp định nào đó của hội nghị” (W.J.Duiker, 1994, p.174).
Ngày 25/01/1954, Hội nghị cấp Bộ trưởng ngoại giao giữa Liên Xô, Anh, Pháp, Mỹ khai mạc tại Berlin ra thông báo sẽ triệu tập Hội nghị Giơ-ne-vơ, bàn giải pháp cho vấn đề Triều Tiên và lập lại hòa bình ở Đông Dương. Trong Hội nghị này, Liên Xô tích cực đấu tranh để Trung Quốc được tham gia Hội nghị. Mặc dù Mỹ kiên quyết phản đối, song trong xu thế các nước đều muốn hòa đàm, cuối cùng Mỹ buộc phải nhượng bộ. Trước thềm Hội nghị Giơ-ne-vơ, Liên Xô và Trung Quốc liên hệ chặt chẽ, thường xuyên họp bàn, trao đổi, quyết định phương châm, đối sách và các hoạt động phối hợp ngoại giao. Hai nước nhất trí để Liên Xô soạn thảo phương án cụ thể cho các cuộc đàm phán ở Giơ-ne-vơ. Đối với vấn đề Đông Dương, liên quan trực tiếp đến Việt Nam, nội dung liên quan đến vấn đề toàn vẹn lãnh thổ và quyền độc lập dân tộc trở thành “trục chính”, gây nên những tranh cãi và bất đồng trong sự tính toán của các nước tham gia.
Đối với Liên Xô và Trung Quốc, trên tinh thần “chung sống hòa bình” và mục tiêu vừa kiềm chế, vừa tránh đụng độ với Mỹ, cả hai nước này đều muốn giải quyết các vấn đề trên cơ sở nhượng bộ và thỏa hiệp. Dựa trên hình mẫu của vấn đề bán đảo Triều Tiên được giải quyết trước đó không lâu, Liên Xô và Trung Quốc thống nhất phương án vạch ranh giới đình chiến ở Đông Dương, “lấy vĩ tuyến 16 độ Bắc như là một trong những phương án để xem xét” (Qian Jiang, 2005, p.38). Liên quan đến Việt Nam, cả hai nước kiên trì quan điểm chia Việt Nam thành hai miền, dù Liên Xô hiểu rằng sau chiến thắng Điện Biên Phủ đây là vấn đề “hết sức tế nhị”. Là nước đưa ra sáng kiến triệu tập Hội nghị Giơ-ne-vơ, Liên Xô không chỉ đơn thuần quan tâm giải quyết vấn đề Đông Dương mà còn nhằm dàn xếp một số vấn đề về châu Âu, liên quan trực tiếp đến lợi ích chiến lược của Liên Xô. Liên Xô mong muốn cuộc chiến Đông Dương cần phải được giải quyết và giải quyết bằng thương lượng, đi đến đình chiến, có như vậy, chiến lược ổn định vùng Viễn Đông mới được đảm bảo, từ đó Liên Xô mới có điều kiện dồn lực cho phát triển kinh tế, rảnh tay tập trung cho khu vực Đông Âu – không gian sinh tồn của chế độ Soviet. Đối với Trung Quốc, nhằm bảo đảm an ninh phía Nam, yêu cầu đặt ra là cấp bách chấm dứt chiến tranh Triều Tiên và chiến tranh Đông Dương với mục tiêu chiến lược nhanh chóng ổn định, phát triển, từng bước khẳng định vị trí nước lớn ở khu vực cũng như trên thế giới. Trong suốt chiều dài Hội nghị Giơ-ne-vơ, với vị trí là nước viện trợ quân sự chủ yếu và nắm giữ con đường vận chuyển duy nhất chi viện cho Việt Nam, Trung Quốc đứng ra giữ vai trò “cầu nối”, đưa các sáng kiến hòa giải, tháo gỡ và phá vỡ bế tắc, dần dần khẳng định vị thế nước lớn. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Trung Quốc chỉ đạo Việt Nam không đánh lớn, điều này được Đại tướng Võ Nguyên Giáp ghi nhận lại: “Tôi nêu ý kiến trong Quân ủy dùng ngay khoảng một trăm xe đưa một bộ phận pháo binh 351 và một đơn vị chủ lực tránh về Tam Nông, Phú Thọ, phía tả ngạn sông Đà, uy hiếp phía tây bắc Hà Nội. Đồng chí Vi Quốc Thanh khuyên ta tránh sử dụng lực lượng lớn đề phòng vấp váp, để giữ trọn vẹn chiến thắng đã giành được” (Võ Nguyên Giáp, 2000, tr.420-421).
Đối với Pháp, là nước ở trong tình thế bất lợi về quân sự và ngoại giao nhưng nước này ra sức tìm kiếm cơ hội giải quyết chiến tranh tại Giơ-ne-vơ thông qua thương lượng, đặt mục tiêu phải ở tư thế áp đảo, nhằm đạt những điều khoản có lợi nhất. Trên tâm thế bảo vệ vị thế cường quốc, Anh e ngại phong trào giải phóng dân tộc ở Đông Dương tác động đến hệ thống thuộc địa rộng lớn của mình, nên có tâm thế ủng hộ nước Pháp. Tuy nhiên, khi phân tích tình hình có nhiều biến đổi to lớn, nhận thấy đe dọa quân sự không giúp gì cho việc giải quyết vấn đề Đông Dương, trái lại có thể dẫn đến cuộc xung đột lớn hơn, Anh kiên định lập trường không can dự. Do vậy, Anh phối hợp khá nhịp nhàng với Pháp, Liên Xô, Trung Quốc trong giải quyết các vấn đề phức tạp của Hội nghị. Thành công nổi trội hơn cả của Anh ở Giơ-ne-vơ là ở chỗ khéo léo sử dụng ngoại giao để giải quyết các vấn đề quốc tế nhằm thu về những gì có lợi nhất cho vị thế cường quốc.
Còn đối với Mỹ, để thực hiện kế hoạch ngăn chặn làn sóng ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản, Mỹ nghiêng về phương án can thiệp và trợ giúp quân sự cho Pháp và tìm con đường thâm nhập vào Đông Dương sau khi Pháp rút đi. Đến tháng 6/1954, Mỹ đồng tình với giải pháp chia cắt Việt Nam, có chung quan điểm với Pháp về các chính sách đối với Đông Dương. Nhìn chung, lập trường tham gia Hội nghị Giơ-ne-vơ của Mỹ là bảo đảm ảnh hưởng đối với các quyết định, song không ràng buộc, tìm cách né tránh để không phải chịu trách nhiệm và ràng buộc bởi kết quả của Hội nghị, chuẩn bị trước cho khả năng can thiệp vào Đông Dương khi cần thiết. Điều này có thể lý giải việc Mỹ sau này từ chối không tham gia vào Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954.
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là chủ thể giành chiến thắng trước Pháp tại chiến trường Điện Biên Phủ, tuy nhiên thành quả này không đủ “sức nặng” khi đứng trước sự toan tính của các cường quốc. Lần theo diễn biến trong các phiên đàm phán tại hội nghị Giơ-ne-vơ cho thấy, dường như mọi vấn đề về Đông Dương đã được các nước lớn sắp đặt và quyết định, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không còn sự lựa chọn nào khác. Dưới áp lực của Liên Xô và Trung Quốc, dù cố giữ lập trường cứng rắn, nhưng cuối cùng các yêu cầu của phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa buộc phải hạ thấp dần. Mặc dù mong muốn độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, nhưng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hiểu rằng Liên Xô, Trung Quốc không muốn giúp đưa cuộc kháng chiến chống Pháp lên đến đỉnh điểm cuối cùng. Trong điều kiện thiếu sự giúp đỡ của các nước đồng minh, nếu Mỹ trực tiếp tham chiến, cuộc chiến đấu của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẽ hết sức bất lợi.
Tóm lại, các nước lớn như Liên Xô, Trung Quốc, Mỹ, Anh, Pháp đã tìm cách hạn chế thắng lợi của chiến thắng Điện Biên Phủ trên bàn đàm phán của hội nghị Giơ-ne-vơ. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuy thắng lớn trên chiến trường, song do thiếu kinh nghiệm trên bàn đàm phán, thực lực chưa mạnh và chịu sức ép từ nhiều phía nên “chỉ có được một nửa nước Việt Nam” với ranh giới là vĩ tuyến 17 (thay cho dự tính vĩ tuyến 13 ban đầu) và thời hạn hai năm tổng tuyển cử (thay vì 6 tháng như đề nghị). Quân tình nguyện Việt Nam phải rút khỏi Lào, Campuchia. Lực lượng Pathet Lào tập kết ở hai tỉnh Sầm Nưa và Phong Sa Lỳ, lực lượng Khmer Issarak giải giáp tại chỗ. Hội nghị Giơ-ne-vơ đi đến ký kết ba hiệp định về Việt Nam, Lào, Campuchia với kết quả đạt được chưa trọn vẹn, chưa tương xứng với xương máu mà nhân dân ba nước Đông Dương đã đổ ra trong chín năm kháng chiến chống Pháp. Vì vậy nhân dân Việt Nam nói riêng và cả nhân dân Đông Dương nói chung phải tiếp tục cuộc đấu tranh chống Mỹ đến năm 1975 mới giành được thắng lợi.
- Thay lời kết
70 năm nhìn lại tầm vóc và ý nghĩa lịch sử của Điện Biên Phủ, rõ ràng chiến thắng này đã kết thúc cuộc kháng chiến chín năm anh dũng của nhân dân Việt Nam và hai nước bạn Lào, Campuchia, đem lại độc lập, chủ quyền cho ba nước, chấm dứt chế độ thuộc địa của Pháp gần 100 năm. Nhìn xa hơn, chiến thắng Điện Biên Phủ mở đầu quá trình sụp đổ, tan rã của hệ thống thuộc địa của các nước đế quốc trên phạm vi thế giới. Tháng 11/1954, nhân dân Algeria đứng lên khởi nghĩa, tiến hành cuộc kháng chiến đánh đuổi thực dân Pháp, đến năm 1962 đã giành thắng lợi. Nhiều nước thuộc địa, phụ thuộc ở châu Á, châu Phi cũng đứng lên đấu tranh giành độc lập. Năm 1960 được gọi là “năm châu Phi” với 17 nước giành độc lập. Đến thập niên 1970, hầu hết các nước thuộc địa, phụ thuộc đã giành độc lập. Ngày nay chúng ta nhìn lại chiến thắng Điện Biên Phủ càng thấm thía ý nghĩa lịch sử và ý nghĩa thời đại của nó, báo hiệu sự sụp đổ hoàn toàn của chủ nghĩa đế quốc thực dân, góp phần vào trang lịch sử vẻ vang giải phóng các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc trên toàn thế giới. Học giả R.Phrăng, Trường Đại học Tổng hợp Panthéon-Sorbonne Paris 1 (Pháp) nhận định: “Âm vang về Điện Biên Phủ như là tiếng sấm trên bầu trời Pháp,… Điện Biên Phủ quả thực được xem như là một sự thất bại và cũng là sự phá sản của nước Pháp” (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005, tr.520). Còn học giả J.C. Rome, Đại học Tổng hợp Strasbourg III (Pháp) nhấn mạnh: “Năm 1954 quả là một năm quan trọng đối với lịch sử nước Pháp và lịch sử Việt Nam. Nhưng vượt ra khỏi phạm vi của mảnh đất thuộc địa này, người ta còn coi đây là năm bản lề trong lịch sử xung đột Đông – Tây và trong lịch sử quan hệ quốc tế nói chung. Do nhiều yếu tố khác nhau, thế cân bằng lực lượng bị biến đổi từ 1954 và cả những năm sau nữa” (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005, tr.20). Chiến thắng Điện Biên Phủ đã làm đảo lộn chính sách thuộc địa của thực dân Pháp, buộc họ phải có sự điều chỉnh, tôn trọng quyền tự quyết của các dân tộc, công bố “quyền tự trị” hoặc trao trả độc lập cho nhiều nước châu Phi. Còn đối với Mỹ – nước ủng hộ mạnh mẽ và chịu phí tổn chiến tranh chủ yếu cho Pháp, nhà sử học Berna Fol viết rằng: “Điện Biên Phủ không chỉ là một chiến thắng quân sự của Việt Minh đối với người Pháp, mà còn là một chiến thắng chính trị của Việt Minh đối với người Mỹ” (Nguyễn Khoa Điềm, 2005, tr.1161).
Tuy nhiên những tác động, ảnh hưởng bởi thắng lợi của chiến thắng Điện Biên Phủ ở Việt Nam vẫn chưa phát huy hiệu quả tại Hội nghị Giơ-ne-vơ. Từ Điện Biên Phủ đến Giơ-ne-vơ năm 1954 là một hành trình dài, chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi các nhân tố quốc tế. Nhân dân Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung vẫn phải tiếp tục chiến đấu hơn hai mươi năm nữa mới giành được thắng lợi hoàn toàn trước Mỹ để kết thúc sự can dự của các thế lực thực dân, đế quốc.
Tiến sĩ Nguyễn Thị Phương, Thạc sĩ Lê Trần Quang Khang
Kỷ yếu hội thảo: NAM BỘ TỪ ĐIỆN BIÊN PHỦ ĐẾN HIỆP ĐỊNH GIƠ-NE-VƠ 70 NĂM NHÌN LẠI (1954-2024)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Chester L. Cooper. (1970). The Lost Crusade: America in Vietnam, US: Dodd, Mead & Company.
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. (2005). Điện Biên Phủ từ góc nhìn của các nhà khoa học Việt – Pháp. Hà Nội: Chính trị Quốc gia.
Felix Greene. (1971). The Enemy: What Every American Should Know About Imperialism. New York: Vintage Book.
Lê Duẩn. (1970). Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành những thắng lợi mới. Hà Nội: Sự thật.
Lê Phụng Hoàng. (2008). Lịch sử quan hệ quốc tế ở Đông Nam Á từ sau Chiến tranh thế giới thứ Hai đến cuối Chiến tranh lạnh (1945-1991). Thành phố Hồ Chí Minh: Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên). (2005). Điện Biên Phủ – Hợp tuyển công trình khoa học. Hà Nội: Chính trị Quốc gia.
The New York Times. (1974). Pentagon Papers. Bantam Books.
W.J.Duiker. (1994). U.S. Containment Policy and The Conflict in Indochina. US: Stanford University Press.
Qian Jiang. (2005). Zhou Enlai and the Giơ-ne-vơ Conference. Beijing: History of CPC Press.
Tin cùng chuyên mục:
Ứng dụng Taxonomy trong phân loại tài liệu điện tử: Mối tương quan giữa Taxonomy và khung phân loại Paul Boudet
Khai thác tài liệu lưu trữ và phát triển thư viện trực tuyến: Gìn giữ và quảng bá di sản Đô thị Vũng Tàu
Từ Chiến thắng Điện Biên Phủ đến Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954: Tác động của các nhân tố quốc tế
Phát huy tinh thần chiến thắng Điện Biên Phủ, khơi dậy khát vọng xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng cho sinh viên thời kì cách mạng công nghiệp 4.0