Công tác tổ chức quản lý khoa học tài liệu Mộc bản triều Nguyễn (P1) – Đề án cứu nguy tài liệu Mộc bản triều Nguyễn

Ngày 30.4.1975, sau hai tháng thần tốc, Quân Giải phóng đã tiến hành toàn thắng cuộc Tổng tiến công nổi dậy mùa xuân 1975, đánh bại hoàn toàn quân đội Sài Gòn với sự chi viện của Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, mang lại hoà bình, thống nhất cho dân tộc Việt Nam. Trong không khí hân hoan đón chào mùa Xuân đại thắng, cũng như nhiều ngành, lĩnh vực khác, cán bộ lưu trữ nhanh chóng bắt tay vào tiếp quản cơ sở lưu trữ của chế độ cũ để lại. Ngày 1.5.1975, theo sự phân công, Ban Thông tin Văn hóa Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam có trách nhiệm tiếp quản các cơ sở văn hóa của chế độ cũ (trong đó có văn khố và thư viện).

Riêng chi nhánh Nha Văn khố Quốc gia của chính quyền cũ tại Đà Lạt – nơi lưu trữ hơn 30 ngàn tấm Mộc bản, về danh nghĩa, chính quyền Sài Gòn đã giao nộp từ ngày 2/5/1975, nhưng thực tế, đến tháng 8/1975, ngành Lưu trữ mới tiến hành khảo sát bước đầu. Theo kết quả khảo sát, do thiếu sự quản lý, chi nhánh Văn khố tại Đà Lạt hư hỏng nặng, khoảng 35%[1] diện tích nhà lưu trữ bị hỏng do cây đổ, nước mưa tràn vào các tầng nhà, hệ thống điện nước cũng bị hư hỏng nặng. Hầu hết hồ sơ bị chất đống trong một căn phòng rộng chỉ khoảng 36m2, còn nhiều tài liệu có giá trị khác, đặc biệt là khối tài liệu Mộc bản triều Nguyễn do để rải rác trong điều kiện không được bảo quản an toàn như ga ra xe hơi trường Hùng Vương, hay để ở tầng hầm ngân hàng,… Phải đến năm 1981, ngành lưu trữ mới chính thức tiếp nhận khối tài liệu Mộc bản, ước lượng khoảng hơn 35.000 tấm. Nhưng do trọng lượng lớn (khoảng 60 tấn), không có phương tiện vận chuyển, nên khối tài liệu trên tiếp tục được lưu giữ tại chỗ (kho H89, Đà Lạt). Đến năm 1984, do để trong tình trạng thiếu quản lý, tài liệu Mộc bản đứng trước nguy cơ hủy hoại cao. Trước thực trạng đó, ngày 20/12/1984, Cục Lưu trữ ban hành Quyết định số 107-QĐ/TC thành lập Kho tài liệu lưu trữ lịch sử (gọi tắt là K.II) trực thuộc Kho Lưu trữ Trung ương II đóng tại thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, có chức năng quản lý khối tài liệu Mộc bản. Về nhiệm vụ cụ thể, Kho tài liệu lưu trữ lịch sử thực hiện các công tác:

  1. Tổ chức bảo vệ, bảo quản an toàn khối tài liệu lưu trữ Quốc gia do Kho Lưu trữ Trung ương II quản lý;
  2. Quản lý cơ sở vật chất toàn bộ nhà cửa kho tàng, trang thiết bị được giao sử dụng. Quản lý cán bộ công nhân viên làm việc ở kho;
  3. Quan hệ với chính quyền thành phố và phường nơi đóng địa điểm theo sự ủy nhiệm của Trưởng Kho Lưu trữ Trung ương II và thực hiện những quy định quản lý Nhà nước của thành phố và phường[2].

Xác định tài liệu Mộc bản là loại tài liệu có giá trị đặc biệt, cần phải tiến hành “giải cứu” khỏi nguy cơ bị hủy hoại, Kho II tập trung xây dựng phương án với kế hoạch trước mắt là tổ chức quản lý tập trung và xác định nội dung tài liệu. Và về lâu dài, cần xây dựng phương án, thiết kế kho tàng chuyên dụng cho loại hình tài liệu đặc biệt này. Thực hiện chủ trương trên, cuối năm 1984, Kho II điều động tăng cường cho Kho Đà Lạt hai cán bộ Hán – Nôm, cùng với cán bộ tại chỗ đưa tài liệu Mộc bản tập trung về Kho H89 bảo quản và tiến hành xử lý các khâu nghiệp vụ. Với tinh thần khẩn trương, chỉ trong thời gian ngắn, các tấm Mộc bản được đưa vào kho bảo quản tạm thời trong khu Biệt điện Trần Lê Xuân ở số 2 Yết Kiêu, Thành phố Đà Lạt. Và kết quả khảo sát sơ bộ nội dung cho thấy đây là bản khắc 46 đầu sách dưới triều đại nhà Nguyễn.

Song công tác trên chỉ mang tính chắp vá, tạm thời, trên thực tế tài liệu Mộc bản vẫn bị đặt tài liệu trong tình trạng “báo động” khẩn cấp, không được bảo quản trong kho chuyên dụng, chịu ảnh hưởng của môi trường, nấm mốc bám dày. Kho Đà Lạt, thực chất là khu biệt điện Trần Lệ Xuân (tại số 2 Yết Kiêu, Thành phố Đà Lạt) trên tổng diện tích 10.000m2. Năm 1988, được sự đầu tư của các cấp, Trung tâm sửa chữa, cải tạo và mở rộng tại đây kho chứa tài liệu với diện tích 1.000m2 để bảo quản hơn 35.000 tấm Mộc bản (tương đương 1.500 mét giá tài liệu). Tuy gọi là kho lưu trữ, nhưng Kho Đà Lạt cũng chỉ là một nhà kho cấp bốn, dùng làm nơi lưu giữ tài liệu Mộc bản.

Tài liệu Mộc bản dù được xếp lên giá kệ, nhưng vẫn ở trong tình trạng tích đống, chưa tiến hành phân loại, chỉnh lý khoa học nên không thể tra tìm, hay phục vụ độc giả.

Năm 1991, xác định khối tài liệu Mộc bản là khối tài liệu có giá trị lớn, cần đưa vào khai thác để phục vụ những yêu cầu của xã hội, ngành lưu trữ cử cán bộ khảo sát và xây dựng phương án chỉnh lý. Năm 1994, qua thống kê kiểm tra đối với tài liệu Mộc bản, Trung tâm phát hiện trong 31.561 tấm có 102 tấm vỡ đôi, ½ m3 vỡ vụn. Toàn bộ Mộc bản được xếp trên 31 kệ sắt, loại 40 m, 2 kệ gỗ có 43,2 m Mộc bản vỡ đôi, vỡ 3. Hầu hết Mộc bản đã xuất hiện nấm mốc, có mùi chua, độc hại và sự mục nát ngày càng gia tăng theo thời gian. Trước tình hình đáng lo ngại của tài liệu Mộc bản, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II đề xuất lãnh đạo Cục Lưu trữ tiến hành đề án Cứu nguy tài liệu Châu bản – Mộc bản.

Ngày 22/4/1994, trên cơ sở đề xuất của Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Cục Lưu trữ Nhà nước ban hành Quyết định số 17/QĐ-TCCB thành lập Ban chủ nhiệm đề án về chống nguy cơ hủy hoại, bảo quản an toàn và tổ chức sử dụng tài liệu Châu bản, Mộc bản. Ngày 25/6/1994, Cục Lưu trữ Nhà nước tiếp tục ban hành Quyết định số 51/QĐ-NVTW giao cho Giám đốc Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II tổ chức thực hiện đề án chống nguy cơ hủy hoại, bảo quản an toàn và tổ chức sử dụng tài liệu Mộc bản. Từ quyết định này, Giám đốc Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II ra quyết định số 125/TT2 ngày 29/11/1994 thành lập Ban cấp cứu Mộc bản và đề ra chương trình thực hiện gồm 4 mục:

  1. Bảo vệ an toàn tài liệu Mộc bản;
  2. Nội quy thực hiện chương trình cấp cứu Mộc bản;
  3. Quy định xuất nhập tài liệu Mộc bản;
  4. Quy trình kỹ thuật và sản phẩm cấp cứu Mộc bản.

Ngay sau đó, chương trình được triển khai đi vào thực hiện và nhanh chóng mang lại kết quả. Đến năm 1997, Trung tâm đã hoàn thành giai đoạn I của đề án với kết quả cứu nguy 1.160m giá tài liệu Mộc bản khỏi tình trạng chất đống, mối, mục. In dập, thống kê theo số mục, lập mục lục tra cứu bản dập Mộc bản của 55.318 mặt khắc, viết bìa 5946 tờ, chế bản, lập mục lục và thư mục tài liệu.

Nội dung tài liệu Mộc bản cũng được xác định, chỉnh lý một cách khoa học theo trình tự gồm 9 vấn đề chính:

Lịch sử: có 30 bộ sách gồm 836 quyển;

Địa lý: có 02 bộ sách gồm 20 quyển;

Chính trị – Xã hội: có 5 bộ sách gồm 16 quyển;

Quân sự: có 5 bộ sách gồm 151 quyển;

Pháp chế: có 12 bộ sách gồm 500 quyển;

Văn hóa – Giáo dục: có 31 bộ sách gồm 93 quyển;

Tôn giáo – Tư tưởng – Triết học: có 13 bộ sách gồm 22 quyển;

Ngôn ngữ văn tự: có 14 bộ sách gồm 50 quyển;

Văn thơ: có 39 bộ sách gồm 265 quyển;

Toàn bộ bản khắc tài liệu Mộc bản đã được in ra giấy dó và hệ thống hóa thành 152 đầu sách với 1.935 quyển, thuộc 3 nhóm chính sau:

Các chính sử triều Nguyễn gồm các sách Khâm định, Thực lục, Chính yếu.

Các tác phẩm văn chương chính thống của triều Nguyễn gồm các Ngự chế văn, Ngự chế thi và các tác phẩm Thánh chế của các Hoàng đế triều Nguyễn.

Các tác phẩm kinh điển của của nhà Nho, các sách dùng để dạy và học thời bấy giờ như: Tứ thư Ngũ kinh, Bội văn vận phủ, Ngự phê lịch đại thông giám tập lãm v.v…

[1] Báo cáo tổng kết công tác lưu trữ năm 1976 số 89VK/LĐ-76 của Ty Thông Tin văn hoá Lâm Đồng, hồ sơ 05, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.

[2] Hồ sơ số 107, quyết định số 107-QĐ/TC ngày 20.12.1984 về việc thành lập kho tài liệu lưu trữ lịch sử đặt tại thành phố Đà Lạt.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *