Ngay sau những chiến thắng vang dội mùa Hè 1972, báo chí Mỹ và phương Tây đồng loạt công bố những bài viết quan trọng bình luận về cuộc chiến Việt Nam.
Những thắng lợi về quân sự, chính trị, ngoại giao của nhân dân miền Nam từ năm 1969 đến năm 1971 đã góp phần làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch theo chiều hướng ngày càng có lợi cho các lực lượng cách mạng Đông Dương. Tình hình này đã tạo thêm thời cơ thuận lợi cho một cuộc tiến công chiến lược mới ngay trong năm 1972. Từ ngày 30/3/1972, thực hiện chỉ thị của Bộ Chính trị, Quân Giải phóng mở cuộc tấn công chiến lược Xuân – Hè 1972 trên chiến trường miền Nam. Đó là các chiến dịch tiến công của quân chủ lực ta đánh vào Quảng Trị, lấy Quảng Trị làm hướng tiến công chính yếu, từ đó phát triển rộng ra khắp chiến trường miền Nam. Ngay sau những chiến thắng vang dội mùa Hè 1972, báo chí Mỹ và phương Tây đồng loạt công bố những bài viết quan trọng bình luận về cuộc chiến Việt Nam.
Từ đầu tháng 3 năm 1972, theo lệnh của Tổng thống Nixon, tác giả của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, không quân và hải quân Mỹ đã sử dụng hỏa lực tối đa (pháo binh và máy bay) để hỗ trợ cho quân đội Sài Gòn trên mọi mặt trận ở miền Nam nước ta. Ngày 22/3/1972, Mỹ đơn phương tuyên bố ngừng họp Hội nghị Paris vô thời hạn. Ngày 29/3/1972, “Quân Giải phóng đã đưa vào chiến trường ba sư đoàn là 304, 308 và 324B, một sư đoàn pháo binh, hai trung đoàn chiến xa, một trung đoàn hỏa tiễn và hai trung đoàn đặc công, quân số tổng cộng gần 60.000 người để tấn công vùng Trị – Thiên”[1], nhiều vị trí của Việt Nam Cộng hòa thất thủ, Tổng thống Nixon tuyên bố: “Chúng ta sẽ không để cho Cộng sản chiến thắng tại Việt Nam”. Trên tuần báo Le Nouvel Observateur, tác giả Jean Lacouture cho rằng: “Nếu giờ đây Hoa Kỳ không còn nghĩ tới một chiến thắng nữa, Tổng thống Nixon và Cố vấn Kissinger vẫn có sẵn một vài giải pháp để thay thế. Nếu Hoa Kỳ đình hoãn hòa hội Ba-Lê sau cuộc mật đàm mới nhất giữa Kissinger và Lê Đức Thọ, không phải vì Hoa Kỳ từ chối thương thuyết trên các căn bản không do chính họ đề ra, có lẽ vì Hoa Kỳ có nhiều lá bài khác, hay nhiều kế hoạch phản ứng khác … Mục tiêu số một của Hoa Kỳ là củng cố tại chỗ cho VNCH, bằng cách gia tăng lực lượng và vũ khí mới. Nhưng liệu nỗ lực này có cứu vãn được tình hình và nhất là phục hồi được tinh thần binh sĩ VNCH hay không?” [2]. Và “điều mà Sài Gòn và Hoa Thịnh Đốn e ngại nhất là việc thất thủ của khu vực Quảng Trị và Huế trước mùa mưa để Cộng quân thiết lập một chính phủ lâm thời. Tuy nhiên, viễn ảnh thật ra có thể đen tối hơn. Cộng quân hiện mới chỉ tung ra một phần nhỏ lực lượng. Sư đoàn 308 dường như vẫn chưa vượt qua vùng phi chiến. Sư đoàn 324 B vẫn trong tư thế chờ đợi ở phía Tây Thị xã Huế và đặc biệt Cộng quân đã mở hai mặt trận mới quan trọng hơn ở Cao nguyên và vùng Tây Bắc Sài Gòn”. [3]
Trước sự tiến công như vũ bão của Quân Giải phóng, Hoa Kỳ đã huy động một guồng máy tình báo quy mô với đầy đủ thiết bị tối tân nhất, kể cả các máy điện tử. Tuy nhiên “Hệ thống tình báo Hoa Kỳ không đủ sức lượng định chiến thuật của Cộng Sản, bằng cớ là họ vẫn tiên đoán địch sẽ đánh ở Cao nguyên trong khi địch vượt khu phi quân sự” [4].
Bước sang tháng 4 năm 1972, việc tướng Võ Nguyên Giáp đã phát động một cuộc tấn công quy mô lớn chỉ trước vài ngày Tổng thống Nixon thăm Nga và chỉ vài tháng trước ngày bầu cử ở Hoa Kỳ đã trở thành vấn đề nóng bỏng trên báo giới. Trên nhật báo Le Figaro, Raymond Aron cho rằng có ba lý do:
- Trong khi Hoa Kỳ thương thỏa với Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa, Bắc Việt thấy cần cân nhắc các đại cường rằng họ không thể tự quyết định vận mạng các nước nhỏ.
- Chính phủ Sài Gòn đã củng cố được uy thế tại nông thôn, có nghĩa là “kế hoạch Việt hóa” đã tiến bộ. Cuộc phản công của Hà Nội do đó nhằm ngăn chặn đà tiến đó và thủ tiêu đại diện chính quyền xã ấp.
- Bắc Việt hy vọng rằng các thắng lợi quân sự sẽ khơi dậy làn sóng phản chiến tại Hoa Kỳ. Chuyến Nga du của Ông Nixon do đó sẽ không ích lợi thiết thực cho VNCH. Hơn nữa một ứng cử viên Tổng thống Hoa Kỳ thuộc đảng Dân chủ có nhiều triển vọng thắng cuộc.[5]
Bàn luận xoay quanh các vấn đề về mục tiêu thuần túy quân sự của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, các chiến lược gia phỏng đoán, “có lẽ Giáp nhằm nhiều mục tiêu, từ việc lớn như chiếm Sài Gòn và gây sụp đổ cho chế độ Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, cho đến việc nhỏ như các thắng lợi giới hạn và tạm thời (như hồi năm 1968) nhưng gây xôn xao cho công luận Mỹ. Giữa hai thái cực đó, việc đánh chiếm một thành phố quan trọng và thiết lập lâu dài một chính quyền cách mạng trong khu “giải phóng” sẽ làm suy yếu rõ rệt chế độ VNCH, uy thế của Tổng thống Nixon và có thể khiến Hoa Kỳ phải đưa ra những đề nghị mới khác. Dẫu thế, người ta không tin Ông Nixon sẽ nhượng bộ thêm. Trong tương lai cận, phản ứng sẽ ngược lại và cường độ oanh tạc sẽ dữ dội. Cố nhiên, Ông vẫn để ngỏ cánh cửa thương thuyết vì các cố vấn Tòa Bạch Cung cho rằng đợt đồng khởi của Cộng quân chỉ là nỗ lực cuối cùng để thương thuyết trong thế mạnh. Dù vì quyền lợi cá nhân hay quyền lợi quốc gia, Tổng thống Nixon không thể không biết đến lợi ích của một thỏa hiệp, ngay cả khi thỏa ước này không đảm bảo tương lai chính phủ của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Có thể một ngày nào đó, Ông Nixon sẽ phải khuất phục trước điều sẽ không tránh được..[6]
Về phía các viên chức Hoa kỳ, dù đã đoán trước được sự tấn công của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam nhưng “Họ cũng cho rằng, nếu Hà Nội thất bại lần này, Cộng sản sẽ chịu chấp nhận thương thuyết hầu tiến đến một giải pháp… Tuy nhiên, nếu cuộc tấn công bị chận đứng, Tướng Giáp vẫn còn có thể rút quân về qua ngã biên giới Ai Lao và Kampuchia. Chắc hẳn Ông không chiến đấu và chờ đợi 30 năm nay để chịu thương thỏa khi mà số quân Hoa kỳ còn lại đang trên đường hồi hương. Có thể chờ sau khi tuyển cử Hoa kỳ, lúc ông Nixon không còn chịu áp lực chính trị để triệt thoái không lực, Tướng Giáp mới chịu hòa nghị. Trong khi đó, chiến cuộc vẫn tiếp diễn, và dù sự can thiệp của không quân có hữu hiệu, các trận đánh vẫn cứ kéo dài đến giữa tháng 5. Đây là một viễn ảnh không mấy tốt đẹp với Tổng thống Nixon. [7]
Theo ý kiến của một số giới chức cao cấp Bạch Cung thì Bắc Việt đang chơi lá bài chót. Các cố vấn của Nixon cho rằng, Bắc Việt cảm thấy thời gian không còn ở về phía họ nên đã tập trung những lực lượng còn lại để tổng tấn công, không phải mưu tìm một chiến thắng quân sự quyết định, nhưng chỉ nhằm củng cố tư thế tại bàn hội nghị. Theo họ, dù hậu quả của cuộc tấn công ra sao, nó cũng đưa đến sự tái tục thương thảo. Tuy nhiên “một số chuyên gia ngoài chính quyền nghi ngờ về lập luận “một mất một còn” đó. Theo họ, trong chiến tranh này không có yếu tố gì có tính chất quyết định. Nếu cho rằng Bắc Việt đã kiệt lực và đánh lá bài chót, đó là một sai lầm lớn. Sự sử dụng chiến xa chỉ giúp Bắc Việt tiết kiệm hơn sinh mạng quân sĩ và họ sẽ dễ dàng xin Nga sô trang bị bổ sung.” [8]
Lúc này, trong sinh hoạt nội chính Hoa Kỳ, Việt Nam lại trở thành đề tài quan yếu. Trong khi Tổng thống Nixon tuyên bố rằng “Ông sẽ không muốn trở thành vị Tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên bị chiến bại. Do đó, Ông phải lựa chọn hoặc thua trận hoặc đưa ra những biện pháp quân sự khiến Ông không còn có thể cho rằng “chiến tranh đang giảm dần.” [9]
Trên Nhật báo Le Figaro, Tướng Beaufre bình luận: “Những ai đã từng quan sát tình hình Đông Dương trong khoảng thời gian từ 1951 đến 1954 đều thấy ngay rằng tướng Võ Nguyên Giáp đang giở lại thủ đoạn chính trị chiến lược cũ: tạo một biến cố tâm lý lớn lao trong thời gian có thương thuyết, nhờ vào một chiến thắng quân sự ngoạn mục… Theo dõi diễn biến tình hình trong những ngày gần đây, người quan sát thấy rõ sự trùng hợp với tình hình ngày xưa. Gây áp lực quân sự hướng về Huế, tấn công cao nguyên, cho chiến xa xuất trận tại vùng Mỏ Vẹt, mở thêm mặt trận tại Kampuchia, đẩy mạnh hoạt động quân sự tại Lào, có thể là những dấu hiệu của giai đoạn đầu trong kế hoạch của Giáp. Tuy nhiên, người ta để ý một điều: lực lượng đồng minh đang sử dụng một lá bài mà quân Pháp hồi năm 1954 không có. Đó là không lực cực mạnh của Hoa kỳ.” [10]
Theo nhận định của James Reston thì “Cộng sản Việt Nam đang nỗ lực chiến thắng trong một trận đánh quyết liệt như họ từng đánh bại quân Pháp tại Điện Biên Phủ. Đây là một chiến lược táo bạo nhưng khó hiểu. Trước hết, tình thế hiện nay không như năm 1954, Việt Nam Cộng hòa hiện có trên một triệu quân và không bị tập trung hay sơ hở như quân Pháp giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh Pháp – Việt. Ngoài ra, Hoa kỳ còn có trên 500 phi cơ oanh tạc chiến đấu tại Đông Nam Á. Con số này đang được tăng cường để chống lại, không phải những lực lượng du kích rải rác, mà là các đại đơn vị dàn trận cổ điển của địch. Ngoài ra hậu phương của địch cũng đang để hở. Các ước tính của Ngũ Giác đài cho rằng 12 trong số 14 sư đoàn của Bắc Việt hiện vẫn đang hoạt động tại Ai Lao, Kampuchia và Nam Việt Nam. Có thể những cú đánh mau lẹ của Giáp sẽ tê liệt hóa và cắt đứt được miền Nam, dành cho “Mặt trận Giải phóng miền Nam” được một Thủ đô chính trị. Tuy nhiên đây là một phiêu lưu đầy nguy cơ. [11]
Trước nguy cơ bị thất bại hoàn toàn, Tổng thống Nixon quyết định thực hiện chủ trương có ý nghĩa chiến lược vượt ra khỏi khuôn khổ của “Việt Nam hóa chiến tranh”, nghĩa là “Mỹ hóa” trở lại một phần cuộc chiến tranh. Ngày 5 tháng 4 năm 1972, sau khi Quân Giải phóng tiến công Quảng Trị, Bắc Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ, ngay ngày hôm sau, Tổng thống Mỹ Nixon hạ lệnh tái oanh tạc miền Bắc Việt Nam.
Ngày 15/4/1972, Tổng thống Mỹ Nixon cho thi hành kế hoạch Freedom Porch Bravo, dùng B.52 tái oanh tạc miền Bắc. Nhiều quan chức quân sự Mỹ cho rằng, nếu sử dụng B.52, người Mỹ có thể đánh bại mọi kháng cự của quân dân Việt Nam trong cuộc chiến này. Còn “các chuyên gia nghiên cứu Hoa Kỳ, dưới thời Tổng thống Johnson, từng kết luận rằng các cuộc oanh tạc Bắc Việt không đem lại lợi ích” [12] gì. Trên nhật báo International Herald Tribune, ngày 17/4/1972, xuất bản tại Ba Lê, hai chuyên gia Murrey Marder và Michael Getler nhận định: “Việc tái oanh tạc Bắc Việt là một trong những quyết định quan trọng nhất của chính phủ Hoa Kỳ. Đối với Tổng thống Nixon, hậu quả tại quốc nội của cuộc oanh tạc Bắc Việt đã xuất hiện một cách rõ ràng, trong khi đó hậu quả về mặt quốc tế cũng không kém lớn lao… Mặt khác, việc Hoa Kỳ sử dụng các phi cơ B.52 oanh tạc Bắc Việt không phải chỉ là một ván bài quân sự và chính trị cực kỳ nghiêm trọng của riêng Tổng thống Nixon mà còn là một báo hiệu để Hà Nội biết rằng Bắc Việt đang đối phó với một trong các thứ vũ khí có sức tàn phá vĩ đại nhất của Hoa Kỳ[13]
Trong cuộc phỏng vấn dành cho ký giả báo L’Humanité là bà Madeleine Riffaud, Đại tướng Võ Nguyên Giáp tuyên bố: “Hoa kỳ đang thất bại quân sự tại Việt Nam và đó là lý do buộc họ phải chấp nhận mở các hội đàm về hòa bình. Theo lời ông thì vào đầu năm 1967, các nhà lãnh đạo Hoa kỳ bắt đầu ý thức được rằng họ không chiến thắng trong chiến tranh này, và trong đầu năm 1968, sau cuộc tổng tấn công tết Mậu Thân, các nhân vật tại Ngũ Giác Đài hiểu rằng họ đang đi vào con đường thất trận về mặt quân sự. Do đó, đối với các nhà lãnh đạo Mỹ, vấn đề được đặt ra làm cách nào để rút chân khỏi bãi lầy Việt Nam, hoặc là có cách nào để thất trận trong một giá tương đối nhẹ… Giáp cũng cho biết các cuộc oanh tạc của Hoa kỳ không hề ngăn chặn được các xe vận tải, các chuyến tàu hỏa di chuyển trên lãnh thổ Bắc Việt và không gây được trở ngại nhiều cho hệ thống giao thông. Giáp tuyên bố rằng, ưu thế không quân không thể giải quyết được chiến tranh.”[14]
Để chứng minh cho sức mạnh quân sự của mình, Hoa Kỳ đã huy động một lực lượng lớn không quân và hải quân ồ ạt tham chiến ở miền Nam, trở lại đánh phá ác liệt Hà Nội, Hải Phòng và nhiều khu vực khác ở miền Bắc Việt Nam. Trong cuộc chiến tranh phá hoại lần này, Mỹ đánh phá với cường độ cao trên cả hai miền Nam, Bắc và coi đó là một biện pháp quyết định, hi vọng sẽ bóp nghẹt miền Bắc, cắt đứt nguồn tiếp tế từ bên ngoài vào miền Bắc Việt Nam, làm cho miền Bắc suy yếu buộc phải thương lượng với Mỹ trên thế thua. Các chiến lược gia cho rằng, Hoa Kỳ đang ngụy biện cho chính sách của mình khi “gởi phi cơ B.52 tới oanh tạc Hải Phòng là một quyết định vô cùng táo bạo. Chỉ có cố vấn Kissinger, một nhân vật đầy mưu lược, mới dám khuyến cáo Tổng thống Nixon làm như vậy.” [15] Tuy nhiên, “kinh nghiệm trong những năm qua cho thấy phần lớn các cuộc dội bom của Hoa Kỳ đều không mang lại kết quả mong muốn. Trước đây, Hội đồng An Ninh quốc gia có khuyến cáo Tổng thống Nion rằng việc dội bom không đóng một vai trò quyết định tại Việt Nam. Ngay sau khi Cộng sản phát động cuộc tấn công lớn, các phi vụ oanh tạc chiến lược cũng như không yểm sát cận cũng không mấy hữu hiệu. Vậy mà Hoa Kỳ vẫn tiếp tục coi không lực là một thứ vũ khí tối hậu. Đồng ý là không lực đóng vai trò quan trọng trong lại chiến tranh tối tân, nhưng cho rằng không quân có thể thay thế bộ binh tinh nhuệ là điều khó chấp nhận được trong lịch sử chiến tranh. [16]
Tác giả bài báo Năm giả thuyết về phản ứng của Hoa kỳ, Jean Lacouture cho rằng, việc Tổng thống Nixon “Gia tăng các cuộc oanh tạc, kể cả những vùng đông dân cư, như tướng Abrams yêu cầu. Từ trước tới nay, lịch sử từng chứng minh rằng cuộc oanh tạc dầu đẫm máu tới đâu chăng nữa cũng không làm lung lay được ý chí quyết tâm của một dân tộc. Nhưng có hai mục tiêu tương đối mới có thể làm thay đổi những dữ kiện nói trên. Đó là các đê điều trên sông Hồng Hà và hải cảng Hải Phòng. Nếu các đê này bị phá vỡ, sẽ có một triệu người bị thiệt mạng. Còn nếu oanh tạc Hải Phòng các tàu ngoại quốc, trong số có tàu Nga, Trung Cộng và Ba Lan, sẽ bị liên lụy. Nhưng việc oanh tạc các mục tiêu nói trên, nếu xảy ra, sẽ gặp phải hai trở ngại: hệ thống phòng không của Bắc Việt và tinh thần của các phi công Hoa Kỳ. Theo 20 bản báo cáo công khai hoặc mật, tinh thần của các phi công Hoa Kỳ đã suy giảm và dường như họ không muốn bị Bắc Việt bắt làm tù binh.” [17] Theo nhận định của các chiến lược gia, thì việc tái oanh tạc Bắc Việt đã chứng minh sự phá sản của kế hoạch “Việt Hóa” khi Nixon “quyết định cho phi cơ B.52 oanh tạc Hải Phòng, Tổng thống Nixon không những đã trở lại chiến lược trả đũa bị phá sản dưới thời cựu Tổng thống Johnson, Ông còn chính thức thú nhận rằng chính sách “Việt hóa” đã thất bại… Các Tư lệnh Lục quân và Không quân Việt – Mỹ thừa biết cuộc oanh tạc Hải Phòng không có giá trị ngay về mặt quân sự. Đó chỉ là một cuộc trả đũa thuần túy, củng cố thêm quyết tâm chiến đấu của Hà Nội … Và thật mỉa mai, cuộc oanh tạc Hải Phòng đã giúp các đơn vị viễn chinh Bắc Việt có thêm quyết tâm cần thiết để đạt đến mục tiêu của họ.” [18] Và kết quả là “những trận oanh tạc quy mô khiến số tù binh Hoa Kỳ tăng thêm, hoặc những hoạt động lục chiến khiến số thương vong Hoa Kỳ leo thang, sẽ gây phản ứng mãnh liệt và rộng lớn ảnh hưởng đến cuộc tuyển cử.”[19]
Ngày 1/5/1972, sau khi nghe tin thị xã Quảng Trị thất thủ, Tổng thống Nixon đã có cuộc hội đàm gấp với Kissinger và tướng A.Haig để bàn về những biện pháp quân sự đáp trả Hà Nội nhằm cứu nguy cho quân đội VNCH đang tháo chạy ở miền Trung. Trong cuộc họp này, đã có ba giải pháp được đưa ra, gồm việc ném bom, phong tỏa miền Bắc, phá vỡ các đê điều hoặc sử dụng vũ khí hạt nhân. Ngày 2/5/1972, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam giải phóng toàn bộ tỉnh Quảng Trị, phần lớn tỉnh Kontum phía bắc tỉnh Bình Định, một phần ở miền đông Nam bộ, mở ra nhiều vùng quan trọng ở đồng bằng sông Cửu Long.
Bàn luận về vấn đề thất thủ nghiêm trọng của Việt Nam Cộng hòa, tác giả Roger Massip, trên Nhật báo Le Figaro, ngày 2/5/1972, xuất bản tại Ba Lê bình luận:
“Không ai dám nghĩ tới viễn ảnh quân sự lạc quan tại Việt Nam, dù đó là lạc quan thận trọng. Những tin tức chiến trường mới nhất cho thấy một thực trạng bi đát. Tuy sự thất thủ tại Quảng Trị chưa phải là thất bại quyết định, nhưng sức tiến của quân Bắc Việt có thể khiến người ta lo ngại Huế sẽ lọt vào tay Cộng sản.
Điều nghiêm trọng hơn nữa là tinh thần chiến đấu của binh sĩ VNCH. Người ta cảm tưởng tinh thần của họ xuống tới mức thấp nhất. Hiện không chắc quân đội VNCH có thể chiến đấu tới tháng 7.1972 như từng được xác nhận. Từ đây tới tháng 7, sự suy sụp quân sự có thể đến, tiếp theo những thất bại từ chiến trường từ 5 tuần nay. Tuy nhiên, tình hình trầm trọng này đã không cản được Tổng thống Nixon đọc một bài diễn văn cứng rắn và đầy lời lẽ đe doạ hồi cuối tuần qua.
Phải chăng Hoa Kỳ sắp có những phản ứng cực mạnh đối với Bắc Việt như oanh tạc Hà Nội, hệ thống đê điều, phong toả Hải Phòng v.v…? Những phản ứng như thế thường diễn ra mỗi khi Nam Việt Nam lâm nguy. Hay là, chúng ta có nên nghĩ rằng tình hình quân sự gay cấn hiện nay sẽ mở ngõ cho giai đoạn quyết định của các cuộc thương thuyết.” [20]
Theo tác giả Robert Lacontre thì: “Tình hình chiến trường tại Việt Nam nguy ngập, nhưng chưa tới giai đoạn quyết định”.
Còn tác giả Martin Woollacott, trên nhật báo The Guardian, ngày 4/5/1972, xuất bản tại Luân Đôn khẳng định:
“Bắc Việt hiện đã thấy rõ viễn ảnh một chiến thắng tại miền Nam Việt Nam trong năm nay. Sau một tháng giao tranh, Cộng sản đã huỷ diệt một lực lượng của 5 sư đoàn, khoảng 1/3 quân số VNCH. Một phần ba khác bị thương vong từ nhẹ đến trung bình. Quan trọng nhất, gần một nửa trong số 40 tiểu đoàn của các đơn vị ưu tú nhảy dù, biệt động quân và thuỷ quân lục chiến đã bị tổn thất nặng. Cuộc giao tranh tại ba mặt trận lớn cho thấy những điểm giống nhau đáng chú ý.
Trong mỗi trường hợp, đợt tấn công sơ khởi của quân Bắc Việt đã đánh tan được lực lượng chính phủ ở các vị trí bên ngoài, đồng thời đe dọa một thành phố quan trọng. Quân chính phủ sau đó rút về các thị trấn này và được những đơn vị ưu tú tăng viện. Đối với Bắc Việt đây là tình thế lý tưởng để thực hiện những trận đánh bẩy mà họ đã từng thành công trong quá khứ. Họ cắt các trục lộ và thiết lập các cứ điểm trọng pháo quanh thị trấn. Công thức này đã thành công tại Quảng Trị và hầu hết các quan sát viên cho rằng nó sẽ thành công tại Kontum.
Về phái VNCH, một sự kết hợp các quan niệm chiến thuật hỗn tạp, cùng với khả năng yếu kém của vài đơn vị đã vô hiệu hóa sự cố gắng ngăn chận mức tiến quân của Cộng sản. Các nỗ lực của lực lượng VNCH nhằm phá vòng vây của Cộng quân nhìn chung, đã không thành công. Mặt khác, có một sự lệ thuộc mù quáng vào sự yểm trợ của không lực. Điều này chỉ khuyến khích lực lượng chính phủ cố cầm cự để chờ phi cơ oanh tạc địch. Dẫu thế những đơn vị ưu tú của quân lực VNCH, đặc biệt Thuỷ quân lục chiến, đã chiến đấu hữu hiệu và dũng cảm. Tuy nhiên, họ đã được sử dụng một cách phí phạm vào nhiệm vụ tăng cường phòng thủ cho bộ binh, thay vì dùng vào vai trò tấn công như họ đã được huấn luyện.
Người ta không rõ quân Bắc Việt tổn thất ra sao. Một ước tính tình báo mới đây cho rằng Cộng sản có thể duy trì mức tấn công hiện hữu cho tới tháng 10. Hầu hết các nguồn tin đều đồng ý là Kontum, An Lộc ở trong tầm tay Cộng sản và Huế đang bị lâm nguy”. [21]
Nhật báo Le Figaro ngày 19.5.1972, xuất bản tại Ba-Lê, Jean Puoget nhận định: “Quân lực VNCH là một sức mạnh giả tạo. Tất cả nhiên liệu và đạn dược đều do Hoa Kỳ cung cấp. Trong 7 năm chiến tranh và viện trợ quân sự, Hoa Kỳ đã không xây cất cho Việt Nam lấy một cơ xưởng chế tạo đạn dược.Quân lực VNCH là một thứ “con lai”. Thừa hưởng của Tây phương sự nặng nề về trang bị cùng những nguyên tắc và phương pháp xa lạ với thực trạng xứ sở, trong khi vẫn còn duy trì những tệ đoan của mình. Quân đội đã nhiễm thói xấu quá ỷ lại vào không yểm. Họ đánh giặc theo kiểu nhà giàu, trong khi thật sự không đủ phương tiện. Nghiêm trọng hơn, sự ỷ lại này khiến các bộ tham mưu mất hết óc tưởng tượng cần thiết để tìm ra những phương pháp mới hoặc có đủ can đảm để thực hiện những quyết định.” [22]
Ngày 8/5/1972, Tổng thống Mỹ Nixon đọc diễn văn ra lệnh cho Mỹ tiến hành phong tỏa, thả mìn tại các hải cảng và sông ngòi miền Bắc Việt Nam, đánh phá tới mức tối đa các đường xe lửa và đường giao thông của miền Bắc Việt Nam. Hãng thông tấn UPI ngày 10/5/1972, đã tổng hợp dư luận từ các báo ngoại quốc về quyết định phong tỏa Bắc Việt của Tổng thống Nixon như sau:
Tờ St. Louis- dispatch (Hoa kỳ): “bằng cách lựa chọn mở rộng chiến tranh để thực hiện hòa bình, Tổng thống Nixơn đã đọc một bài diễn văn cho ta nhớ lại những điên rồ của quán khứ… Biện pháp phong tỏa là một hành vi chiến tranh và dù ông Nixơn nói gì đi nữa, ông không thể biện minh hành vi đó”.
Tờ Daily Mirror (Anh): gọi sự phong tỏa là hành động kết cuộc trong tấn thảm kịch lớn của Hoa Kỳ. Ông Nixon lựa chọn sự thách thức tính toán này hơn là việc đầu hàng tức khắc. Tuy nhiên, khi sự chiến bại là một điều chắc chắn, đầu hàng đâu nhất thiết là một sự nhục nhã? Chắc chắn nó sẽ vinh dự hơn là việc gây thêm nhiều đau thương một cách vô ích cho những người dân chưa hề biết là chiến tranh nhằm mục tiêu gì.
– Tờ South China Morning Post: (Hương Cảng): “Việc phong toả sẽ không cải thiện được viễn ảnh trường kỳ của chính phủ VNCH. Ông Nixon chắn chắn thừa hiểu rằng không có gì có thể gây áp lực được với Hà Nội, và một khi quân đội Hoa Kỳ rời Việt Nam, Sàigòn khó tồn vong được lâu.” [23]
Trên tuần báo L’Express, từ ngày 7 đến ngày 14/5/1972, xuất bản tại Ba Lê, tác giả Pierre Doublet nhận xét: “Tranh chấp nào rồi cũng được giải quyết bằng kết cuộc thê thảm hay bằng những nhượng bộ. Tuần qua, tại Ba-Lê, cả Bắc Việt lẫn Hoa Kỳ đã từ chối nhượng bộ. Chỉ còn lại kết cuộc thê thảm. Đối với Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa, lần đầu tiên một “trận Điện Biên Phủ” có thể tái diễn. Tuy nhiên, nếu bị dồn vào ngõ bí, ông Nixon có thể có những phản ứng không ngờ tới được. Đối với ông, vấn đề không những chỉ là sự tái đắc cử mà còn liên hệ đến danh dự của Hoa Kỳ. Nếu ông có thể chấp nhận sự chiến bại của Sài Gòn, ông không thể nào để Hoa Kỳ chịu nhục. Chỉ còn một biện pháp chót: mật nghị. Điều này sẽ giúp Hoa Kỳ cứu vãn thể diện bằng cách thanh toán mọi vấn đề chi tiết, kể cả địa vị của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.”[24]
Chuyên gia André Fontaine đi đến kết luận rằng: “Thế giới đang chứng kiến một cuộc tự sát tinh thần, nếu không muốn nói là thể chất, với việc Hoa Kỳ tiếp tục những sai lầm của họ tới “một mức độ quỷ quái”. Nhiều người hớn hở trước thảm trạng đó. Tuy nhiên còn gì buồn hơn là sự tan vỡ của một giấc mơ.” [25] Và khi một số viên chức Ngũ Giác Đài đã công khai nhìn nhận “Chương trình Việt Nam hóa” đang “treo trên một vài sợi chỉ” và chính “Chương trình “Việt Nam hóa” nhằm đưa quân đội Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam đã trở thành một chính sách đe dọa kéo dài sự can dự đau khổ và tốn kém của Hoa Kỳ tại Đông Dương” [26].
Tuy nhiên, đứng trước nguy cơ bị thất bại hoàn toàn, nhưng với bản chất ngoan cố và hiếu chiến, Mỹ-Ngụy vẫn tiếp tục tiến sâu, sa lầy hơn nữa vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Chính quyền Mỹ, đứng đầu là Tổng thống Nixon đã huy động một lực lượng lớn không quân, hải quân đánh phá miền Bắc lần thứ hai với quy mô và mức độ khốc liệt mang tính chất hủy diệt. Ở miền Nam, Mỹ ra sức tăng viện trợ, hà hơi tiếp sức cho chính quyền Sài Gòn, tăng cường đôn quân bắt lính để bổ sung cho số bị thương vong trong chiến dịch Xuân Hè 1972.
NGUYỄN THỊ THIÊM – Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II
Tài liệu tham khảo
[1] Hồ sơ 17462, Phông Phủ Thủ tướng VNCH, Trung tâm Lưu trữ quốc gia II.
[2] Tài liệu của Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo về những bài báo ngoại quốc đáng lưu ý ghi nhận từ ngày 13/5/1972 đến 19/5/1972, Tuần báo Le Nouvel Observateur, từ ngày 8 đến ngày 14/5/1972, xuất bản tại Ba-Lê, Vv.5342, Trung tâm Lưu trữ quốc gia II.
[3] Tài liệu của Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo về những bài báo ngoại quốc đáng lưu ý ghi nhận từ ngày 15/4/1972 đến 21/4/1972, Tuần báo Paris Match, ngày 15/4/1972, xuất bản tại Ba Lê, Tư liệu, Ký hiệu Vv.5338, Trung tâm Lưu trữ quốc gia II.
[4] Tài liệu của Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo về những bài báo ngoại quốc đáng lưu ý ghi nhận từ ngày 6/5/1972 đến 12/5/1972, Tuần báo Newsweek ngày 15/5/1972, xuất bản tại Hoa Kỳ, Tư liệu, Ký hiệu Vv.5341, Trung tâm Lưu trữ quốc gia II.
[5] Tài liệu của Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo về những bài báo ngoại quốc đáng lưu ý ghi nhận từ ngày 15/4/1972 đến 21/4/1972, Nhật báo Le Figaro – ngày 13/4/1972 – xuất bản tại Ba Lê, Tư liệu, Ký hiệu Vv.5338, Trung tâm Lưu trữ quốc gia II.
[6] Tài liệu của Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo về những bài báo ngoại quốc đáng lưu ý ghi nhận từ ngày 15/4/1972 đến 21/4/1972, Nhật báo Le Figaro – ngày 13/4/1972 – xuất bản tại Ba Lê, Tư liệu, Ký hiệu Vv.5338, Trung tâm Lưu trữ quốc gia II.
[7] Tài liệu của Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo về những bài báo ngoại quốc đáng lưu ý ghi nhận từ ngày 15/4/1972 đến 21/4/1972, Nhật báo International, ngày 8-9/4/1972, xuất bản tại Ba Lê, Tư liệu, Ký hiệu Vv.5338, tờ 5-5/2, Trung tâm Lưu trữ quốc gia II.
[8] Tài liệu của Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo về những bài báo ngoại quốc đáng lưu ý ghi nhận từ ngày 15/4/1972 đến 21/4/1972, Nhật báo Le Monde, ngày 11/4/1972, xuất bản tại Ba Lê, Tư liệu, Ký hiệu Vv.5338, Trung tâm Lưu trữ quốc gia II.
[9] Tài liệu của Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo về những bài báo ngoại quốc đáng lưu ý ghi nhận từ ngày 22 đến 28/4/1972, Nhật báo The Evening Star, ngày 7/4/1972, xuất bản tại Hoa Thịnh Đốn, Tư liệu, Ký hiệu Vv.5339, Trung tâm Lưu trữ quốc gia II.
[10] Tài liệu của Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo về những bài báo ngoại quốc đáng lưu ý ghi nhận ngày 9/4/1972, Nhật báo Le Figaro, xuất bản tại Ba Lê, Tư liệu, Ký hiệu Vv.5338, Trung tâm Lưu trữ quốc gia II.
[11] Tài liệu của Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo về những bài báo ngoại quốc đáng lưu ý ghi nhận từ ngày 15/4/1972 đến 21/4/1972, Nhật báo International, ngày 8-9/4/1972, xuất bản tại Ba Lê, Tư liệu, Ký hiệu Vv.5338, tờ 5-5/2, Trung tâm Lưu trữ quốc gia II.
[12] Tài liệu của Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo về những bài báo ngoại quốc đáng lưu ý ghi nhận từ ngày 20/5/1972 đến 26/5/1972, Nhật báo The Washington Post, ngày 12/5/1972, xuất bản tại Hoa Thịnh Đốn, Tư liệu, Ký hiệu Vv.5343, Trung tâm Lưu trữ quốc gia II.
[13] Tài liệu của Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo về những bài báo ngoại quốc đáng lưu ý ghi nhận từ ngày 22 đến 28/4/1972, Nhật báo International Herald Tribune, ngày 17/4/1972, xuất bản tại Ba Lê, Tư liệu, Ký hiệu Vv.5339, Trung tâm Lưu trữ quốc gia II.
[14] Tập bản tin, báo cắt của VTX các báo trong nước về vấn đề ngừng bắn tại Việt Nam năm 1972, Phông Phủ Thủ tướng, hồ sơ 3657, tờ 357, Trung tâm Lưu trữ quốc gia II.
[15] Tài liệu của Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo về những bài báo ngoại quốc đáng lưu ý ghi nhận từ ngày 29/4/1972 đến 5/5/1972, Nhật báo Le Mon de, ngày 19/4/1972, xuất bản tại Ba Lê, Tư liệu, Ký hiệu Vv.5340, Trung tâm Lưu trữ quốc gia II.
[16] Tài liệu của Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo về những bài báo ngoại quốc đáng lưu ý ghi nhận từ ngày 6/5/1972 đến 12/5/1972, Tuần báo Newsweek ngày 15/5/1972, xuất bản tại Hoa Kỳ, Tư liệu, Ký hiệu Vv.5341, Trung tâm Lưu trữ quốc gia II.
[17] Tài liệu của Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo về những bài báo ngoại quốc đáng lưu ý ghi nhận từ ngày 13/5/1972 đến 19/5/1972, Tuần báo Le Nouvel Observateur, từ ngày 8 đến ngày 14/5/1972, xuất bản tại Ba-Lê, Tư liệu, Ký hiệu Vv.5342, Trung tâm Lưu trữ quốc gia II.
[18] Tài liệu của Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo về những bài báo ngoại quốc đáng lưu ý ghi nhận từ ngày 22 đến 28/4/1972, Nhật báo The Guardian – ngày 17/4/1972 – xuất bản tại Luân Đôn, Tư liệu, Ký hiệu Vv.5339, Trung tâm Lưu trữ quốc gia II.
[19] Tài liệu của Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo về những bài báo ngoại quốc đáng lưu ý ghi nhận từ ngày 22 đến 28/4/1972, Nhật báo The Evening Star, ngày 7/4/1972, xuất bản tại Hoa Thịnh Đốn, Tư liệu, Ký hiệu Vv.5339, Trung tâm Lưu trữ quốc gia II.
[20] Tài liệu của Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo về những bài báo ngoại quốc đáng lưu ý ghi nhận từ ngày 6/5/1972 đến 12/5/1972, Nhật báo Le Figaro, ngày 2/5/1972, xuất bản tại Ba Lê, Tư liệu, Ký hiệu Vv.5341, Trung tâm Lưu trữ quốc gia II.
[21] Tài liệu của Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo về những bài báo ngoại quốc đáng lưu ý ghi nhận từ ngày 6/5/1972 đến 12/5/1972, Nhật báo The Guardian – ngày 4/5/1972- xuất bản tại Luân Đôn, Tư liệu, Ký hiệu Vv.5341, Trung tâm Lưu trữ quốc gia II.
[22] Tài liệu của Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo về những bài báo ngoại quốc đáng lưu ý ghi nhận từ ngày 27/5/1972 đến 2/6/1972, Nhật báo Le Figaro ngày 19/5/1972, xuất bản tại Ba-Lê, Tư liệu, Ký hiệu Vv.5344, Trung tâm Lưu trữ quốc gia II.
[23] Tài liệu của Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo về những bài báo ngoại quốc đáng lưu ý ghi nhận từ ngày 6/5/1972 đến 12/5/1972, Hãng thông tấn UPI ngày 10/5/1972, tổng hợp các báo ngoại quốc, Tư liệu, Ký hiệu Vv.5341, Trung tâm Lưu trữ quốc gia II.
[24] Tài liệu của Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo về những bài báo ngoại quốc đáng lưu ý ghi nhận từ ngày 13/5/1972 đến 19/5/1972, Tuần báo L’Express, từ ngày 7 đến ngày 14/5/1972, xuất bản tại Ba-Lê, Tư liệu, Ký hiệu Vv.5342, Trung tâm Lưu trữ quốc gia II.
[25] Tài liệu của Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo về những bài báo ngoại quốc đáng lưu ý ghi nhận từ ngày 20/5/1972 đến 26/5/1972, Nhật báo Le Monde, ngày 13 và 14/5/1972, xuất bản tại Ba-Lê, Tư liệu, Ký hiệu Vv.5343, Trung tâm Lưu trữ quốc gia II.
[26] Tài liệu của Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo về những bài báo ngoại quốc đáng lưu ý ghi nhận từ ngày 6/5/1972 đến 12/5/1972, Tuần báo Newsweek ngày 15/5/1972, xuất bản tại Hoa Kỳ, Tư liệu, Ký hiệu Vv.5341, Trung tâm Lưu trữ quốc gia II.
Nguồn: archives.gov.vn
Tin cùng chuyên mục:
Khó khăn và giải pháp khắc phục trong triển khai nhiệm vụ nộp lưu tài liệu lưu trữ số
Thực trạng triển khai công tác lưu trữ điện tử của Ủy ban Dân tộc
Văn học Sài Gòn 1954-1975 những chuyện bên lề
Sài Gòn 1698-1998 Kiến trúc quy hoạch