Lịch sử cộng đồng người Khmer ở Nam kỳ trước thế kỷ XIX
Những phát hiện khảo cổ học vào thời tiền sử ở Campuchia cho biết : đến thời kỳ đá mới, văn hóa tiền sử Campuchia mang sắc thái địa phương được tập trung và phát triển tương đối nhanh hơn ở vùng Đông – Bắc Biển Hồ. Sự hiện diện có tính tiếp nối các di chỉ khảo cổ học được xếp vào văn hóa đá mới (Laang Spean), đá mới – đồng thau (Samrong Sen) rồi đến đồng thau – sắt sớm (Mlu Plây) đã chứng tỏ sự có mặt của một bộ phận cư dân cổ Đông Nam Á trên đất Campuchia. Dựa vào sự phân bố các di chỉ khảo cổ học có thể đoán định rằng những bộ phận cư dân này tập trung chủ yếu ở vùng Đông Bắc Biển Hồ và lưu vực sông Sê-mun chảy qua Cò-rạt (Thái Lan ngày nay). Cũng những tài liệu khảo cổ học này cho biết rằng những cư dân cổ sinh sống ở đây chủ yếu là cư dân nông nghiệp, sống bằng nghề trồng trọt, săn bắn, đánh cá,… Theo nghiên cứu của TS. Nguyễn Khắc Cảnh, đây chính là tổ tiên chung của người Khmer và các tộc ít người bản địa của Campuchia mà hậu duệ còn lại tới ngày nay là người Pnông cư trú ổ vùng Đông Bắc Campuchia[1].
Ở những thế kỷ trước và sau Công nguyên là thời kỳ biến động mạnh mẽ trong quá trình hình thành tộc người Khmer. Cư dân “tiền Khmer – Pông” đã chịu tác động sâu sắc của hai lần “Ấn Độ hóa” về văn hóa và con người với những đợt thiên di của các tầng lớp quý tộc, thương nhân, tăng lữ, trí thức từ Ấn Độ tới; cùng với những đợt Nam tiến của nhiều tộc người từ Bắc Đông Dương và Nam Trung Quốc xuống. Trong bối cảnh của những biến động về văn hóa và tộc người đó mà loại hình Khmer đã hình thành cùng với quá trình hình thành nhà nước Campuchia sơ kỳ (Chân Lạp cổ đại). “Từ một khối chung là “tiền Khmer – Pnông”, một bộ phận chủ yếu quan trọng nhất chịu tác động pha trộn của nhiều thành phần cư dân (trong đó chủ yếu là thành phần Ấn) đã hình thành nên loại hình Khmer. Bộ phận còn lại, do những nguyên nhân khác nhau, ít chịu ảnh hưởng của sự pha trộn đã bảo lưu thành phần nhân chủng gốc cho đến ngày nay, đó là người Pnông”[2]. Người Khmer không phải là tộc người ngoại lai từ nơi khác di cư đến Campuchia mà họ có tổ tiên chung từ một bộ phận cư dân cổ ở Đông Nam Á. Từ đây, người Khmer bước vào quá trình liên kết và cố kết tộc người. Quá trình này gắn liền với sự hình thành nhà nước Campuchia sơ kỳ.
Quốc gia Chân Lạp cổ đại thời kỳ đầu là thuộc quốc của Phù Nam. Sau đó Chân Lạp mạnh lên, chẳng những thoát khỏi sự xâm lấn của Phù Nam mà còn quay trở lại thống trị Phù Nam, sáp nhập thành một bộ phận lãnh thổ của mình. Nước Phù Nam dần diệt vong. Việc chinh phục Phù Nam đối với Chân Lạp không những là sự mở rộng lãnh thổ mà còn là sự mở đường cho cuộc Nam tiến của người Khmer, rồi dần đi vào lãnh thổ Nam bộ Việt Nam.
Trước khi người Khmer có mặt ở Nam bộ, nhiều tài liệu khảo cổ học đã chứng minh sự tồn tại của một nhà nước Phù Nam ở đây dưới sự ảnh hưởng sâu sắc của làn sóng văn minh Ấn Độ giáo – Phật giáo ở nhiều vùng khác nhau của khu vực Đông Nam Á, trong đó có Nam bộ Việt Nam từ những thế kỷ đầu Công nguyên. Đây là giai đoạn hình thành và phát triển của văn hóa Óc Eo. Trên cơ sở phát triển kinh tế xã hội cuối thời kì đồng thau, sơ kì đồ sắt, dưới tác động của văn minh Ấn Độ, khoảng đầu công nguyên, vùng đất Nam bộ bước vào thời kỳ lập quốc. Theo thư tịch cổ của Trung Quốc thì quốc gia đó có tên gọi là Phù Nam. Nước Phù Nam là một thực thể lịch sử được ghi chép trong thư tịch cổ Trung Hoa và trên những minh văn phát hiện được ở vùng châu thổ sông MeKông. Vị trí của nước Phù Nam là phía Nam bán đảo Đông Dương, phía Nam quận Nhật Nam và Lâm Ấp[3].
Phù Nam là một quốc gia ven biển mà trung tâm là vùng Nam Bộ ngày nay của Việt Nam. Cư dân chủ thể là người Mã Lai đa đảo có truyền thống hàng hải và thương nghiệp khá phát triển. Phù Nam đã mở rộng ảnh hưởng chi phối trên toàn bộ vùng Vịnh Thái Lan và kiểm soát con đường giao thông huyết mạch từ Nam Đông Dương sang Ấn Độ qua eo Kra.
Sau một thời kỳ phát triển rực rỡ, đến cuối thế kỷ VI, đất nước Phù Nam bắt đầu suy yếu và tan rã. Trong khi đó, nước Chân Lạp của người Khmer – một thuộc quốc của Phù Nam trước kia đã phát triển nhanh chóng. Lợi dụng sự suy yếu của Phù Nam để tấn công chiếm lấy một phần lãnh thổ của đế chế này vào đầu thế kỷ VII. Vương quốc Phù Nam đến đây chấm dứt sự tồn tại. Từ chỗ một quốc gia độc lập, vùng đất Nam Bộ bị phụ thuộc vào Chân Lạp.
Sau khi đánh bại Phù Nam, do những mâu thuẫn giữa các tập đoàn phong kiến vào đầu thế kỷ VIII, Chân Lạp bị chia thành hai miền các cứ: “Nửa phía Bắc vùng núi đồi và thung lũng gọi là Lục Chân Lạp. Nửa phía Nam có biển bao vây và đầm lầy gọi là Thủy Chân Lạp. Thủy Chân Lạp về đại thể tương ứng với vùng đất thấp của Phù Nam cũ (tức phần lãnh thổ của Phù Nam trên vùng đất Nam Bộ) còn Lục Chân Lạp là vùng đất gốc của Chân Lạp”[4]. Trong khi đó việc cai quản vùng lãnh thổ mới đối với Chân Lạp hết sức khó khăn. Bởi vì truyền thống của người Khmer là quen khai thác các vùng đất cao, dân số ít hơn. Họ khó có khả năng tổ chức khai thác trên quy mô lớn vùng đồng bằng mới bồi đắp, còn ngập nước và sình lầy. Hơn nữa, việc khai thác đất đai trên lãnh thổ Lục Chân Lạp còn đang đòi hỏi rất nhiều thời gian và sức lực. Việc cai trị xứ Thủy Chân Lạp chưa được chú ý.
Vào nửa sau thế kỷ VIII, quân đội Srivijaya của người Java đã liên tục tiến công các quốc gia trên bán đảo Đông Dương. Kết cục là Chân Lạp bị quân Java chiếm. Cả vương quốc Chân Lạp gần như bị lệ thuộc vào Srivijaya trong vòng một thế kỷ, cho đến năm 802. Trong khoảng thời gian từ cuối thế kỷ IX đến thế kỷ XI, Chân Lạp trở thành một quốc gia cường thịnh tạo dựng nên nền văn minh Ăngkor rực rỡ, đồng thời mở rộng lãnh thổ lên tận Nam Lào và trùm lên cả khu vực sông Chao Phaya. Tuy nhiên, người Khmer lúc này muốn dồn sức phát triển các vùng trung tâm truyền thống của họ ở khu vực Biển Hồ (TonleSap), trung lưu sông MéKông và hướng nỗ lực bành trướng sang phía Tây, vùng lưu vực sông Chao Phaya. Nhưng khảo cổ học đã cho thấy ảnh hưởng của văn minh Ăngkor trên đất Nam bộ khá mờ nhạt[5].
Trong đợt biển tiến cuối cùng của thời kỳ Toàn Tân kéo dài 800 năm (350 – 1150), cả Nam bộ chìm trong nước biển nên con người không thể sinh sống ở đây được. Sau khi biển thoái, Nam bộ hiện lên một vùng đồng bằng mênh mông nhưng lại là một vùng sình lầy, khí hậu ẩm thấp, nhiều thú dữ sinh sống, dân cư thưa thớt. Đó là tình trạng hoang hóa của vùng đất Nam bộ kéo dài trong nhiều thế kỷ, một vùng đất “điểu thủ quần hoang, tuyệt vô nhân tích” mà những tư liệu như “Chân Lạp phong thổ ký” của Châu Đạt Quan (thế kỷ XIII), “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn (thế kỷ XVIII), “Gia Định thành thông chí” của Trịnh Hoài Đức (thế kỷ XIX),… đã phản ánh khá rõ.
Từ thế kỷ X trở đi, cùng với sự rút dần của nước biển thì ở đồng bằng Nam bộ cũng hiện lên một số giồng đất cao màu mỡ, rất thuân lợi cho cư dân cư trú và sản xuất. Vào lúc này, những người nông dân Khmer nghèo khổ, do không chịu được sự bóc lột hà khắc cùng các loại thuế khóa nặng nề của các thế lực phong kiến Angkor, đã bỏ trốn, tìm đến sinh sống ở những giồng đất cao của đồng bằng Nam bộ. Tại đây, họ tập trung sinh sống ở những giồng cát lớn, cư trú theo từng khu vực, dựa trên mối quan hệ dòng họ và gia đình[6]. Từ thế kỷ XIV, Chân Lạp phải đối phó với sự bành trướng của các vương triều Xiêm từ phái Tây, đặc biệt là từ sau khi vương quốc Ayuthaya hình thành. Trong gần một thế kỷ, Chân Lạp phải liên tục đối phó với những cuộc tiến công từ phía người Thái, có lúc kinh thành Angkor đã bị quân đội Ayuthaya chiếm đóng. Trong hoàn cảnh đó, để tránh khỏi sự đàn áp và bóc lột của các thế lực phong kiến Thái Lan, nhiều nhóm người Khmer, trong đó có cả những sư sãi và trí thức Khmer đã di cư đến khu vực đồng bằng Nam bộ sinh sống. Đến đây, họ lại hòa nhập với những lớp người Khmer đến trước, tiếp tục khai phá và biến những vùng đất này thành những điểm tụ cư đông đúc. Nhìn chung, vào đầu thế kỷ XVI, ở đồng bằng Nam bộ cơ bản đã hình thành các điểm dân cư tập trung của người Khmer. Tuy nhiên, về phía triều đình Chân Lạp, từ thế kỷ XVI, và nhất là thế kỷ XVII, do sự can thiệp của Xiêm, triều đình Chân Lạp bị chia rẽ sâu sắc, đất nước suy yếu, khả năng kiểm soát và quản lý của Chân Lạp ở vùng đất Nam bộ giảm sút dần.
Vào thời điểm này, người Khmer là thành phần dân cư chủ yếu sinh sống ở vùng đồng bằng Tây Nam bộ (đồng bằng sông Cửu Long). Trên đại thể, người Khmer đồng bằng sông Cửu Long và người Khmer ở Campuchia là những người đồng tộc có chung ngôn ngữ, tôn giáo và về những đặc trưng tộc người. Tuy nhiên từ khi đến khu vực đồng bằng sông Cửu Long sinh sống, nhóm người này đã sống độc lập và không có mối quan hệ với bất kỳ một quốc gia nào thời đó. Do sống tách biệt với người Khmer ở Campuchia trong một thời gian lâu dài, nên người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long đã tạo ra những đặc điểm cho cộng đồng mình về cư trú, kinh tế, văn hóa và xã hội.
Sau đó, cùng với quá trình cộng cư với các tộc người mới diễn ra liên tục từ những năm cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII càng làm tăng sự khác biệt giữa cộng đồng người Khmer đồng bằng sông Cửu Long và người Khmer ở Campuchia. Đặc biệt từ khi các chúa Nguyễn và nhà Nguyễn xác lập và thực thi chủ quyền cũng như đưa ra những chính sách trong việc quản lý vùng đất Nam bộ, người Khmer đồng bằng sông Cửu Long đã trở thành một dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Lịch sử hình thành và phát triển của vùng đất Nam bộ nói riêng và lịch sử Việt Nam nói chung cho thấy người Khmer là một bộ phận hợp thành của cộng đồng đa dân tộc, đa văn hóa Việt Nam. Người Khmer Nam bộ đã cùng chung sống và phát tirển với người Việt, người Hoa, người Chăm. Họ đã thể hiện sự gắn bó, tinh thần đoàn kết trong cuộc sống cũng như torng cuộc chống ngoại xâm bảo vệ độc lập dân tộc và chủ quyền thiêng liêng của Tổ Quốc.
Địa bàn cư trú và đời sống xã hội của người Khmer ở Nam kỳ
Đến cuối thế kỷ VIII, văn hóa Óc Eo bắt đầu suy tàn. Các công trình văn hóa rực rỡ một thời bị vùi lắp trong lòng đất phèn, mặn của đồng bằng sông Cửu Long. Nguyên nhân chính làm hoang phế và vùi lắp nền văn hóa này có lẽ là nạn ngập lụt triền miên và sự tàn phá của những đội quân người Khmer Campuchia trên đường Nam tiến (sau khi chinh phục được Phù Nam).
Trong nhiều thế kỷ tiếp theo, vùng đồng bằng sông Cửu Long và vùng Nam bộ nói chung trở nên hoang vu. Đến cuối thế kỷ XIII, vùng đất Nam bộ về cơ bản là một vùng hoang dã, chưa được mở mang, khai phá bao nhiêu: “Bắt đầu vào Chân Bồ (vùng biển Vũng Tàu ngày nay) gần hết cả vùng đều là bụi rậm cùng rừng thấp, những cửa rộng của những con sông lớn chảy dài hàng trăm dặm…Khắp nơi vang tiếng chim hót và tiếng thú kêu. Vào nửa đường trong sông, thấy những cánh đồng hoang không có một gốc cây. Xa nữa tầm mắt chỉ thấy toàn cỏ cây đầy rẫy…”[7].
Từ thế kỷ X trở đi, biển rút dần, những giồng đất lớn nổi lên ở vùng Sóc Trăng, Trà Cú, Đồng Tháp Mười, Giồng Riềng đã trở thành những vùng đất đai màu mỡ. Vào thời kỳ này, người Khmer đang bước vào giai đoạn phát triển rực rỡ dưới triều đại Angkor. Những người nông dân Khmer nghèo khó tìm cách trốn chạy sự bóc lột hà khắc và nạn lao dịch nặng nề của giai cấp phong kiến thống trị, đã di cư về vùng châu thổ sông Cửu Long ngày một đông.
Tiếp theo, từ thế kỷ XIII – XIV, đế chế Angkor bắt đầu khủng hoảng. Đặc biệt từ thế kỷ XV (1434) trở đi, khi đế chế Angkor sụp đổ, người dân Khmer lại càng rơi vào cảnh đói nghèo và bị đàn áp nặng nề bởi phong kiến ngoại tộc Thái Lan. Trước tình hình đó, người Khmer ngoài số đông là những người nông dân nghèo trốn chạy chiến tranh, còn có cả quan lại, thậm chí hoàng tộc, sư sãi, trí thức tiếp tục di cư đến đồng bằng sông Cửu Long.
Cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI, người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long về đại thể đã hình thành 3 vùng dân cư tập trung lớn:
- Vùng Sóc Trăng – Bạc Liêu – Cà Mau (chủ yếu là Sóc Trăng, Vĩnh Châu, Vĩnh Lợi).
Ở đây các vùng Kế Sách, Long Phú, Mỹ Xuyên là đất Phù Sa lẫn nhiều cát và có các giồng ven biển. Ngược lại ở các huyện Thạnh Trị, Hòa Thuận là vùng đất sét có nhiều phèn nên không canh tác được lúa mà chỉ có rừng Chổi, rừng Tràm. Vùng bờ biển ở đây thuộc loại đất bùn. Mùa khô nước mặn lên tới tận Đại Ngãi nên các xã, ấp xung quanh đất đai bị nhiễm phèn nặng.
Giữa các giồng là bờ biển, đất thấp và lầy lội, nên chưa thu hút được đông cư dân cư trú. Đất đai ở đây ít màu mỡ, chỉ thuận lợi cho cuộc sống nghề biển, nhưng do thói quen làm nông nghiệp nên nghề đánh cá biển của người Khmer kém phát triển. Đặc trưng nổi bật của vùng này là sự cư trú đan xen giữa người Khmer, Việt, Hoa dẫn đến sự hòa nhập một cách sâu sắc về văn hóa giữa các dân tộc, tạo nên yếu tố văn hóa chung của vùng.
- Vùng An Giang – Kiên Giang (chủ yếu là Vọng Thê, Tri Tôn, Nhà Bàng, sau đến phía Tây Bắc Hà Tiên)
Vùng này còn được gọi là vùng núi Tây Nam bao gồm: vùng tứ giác Long Xuyên với diện tích khoảng 300.000 ha[8]; vùng núi cao dọc biên giới Campuchia thuộc dãy Bảy Núi và một số núi nhỏ khác như: núi Sập, núi Ba Thê. Vùng Hà Tiên có một ít núi đá vôi chạy dài theo vịnh Thái Lan. Thiên nhiên ở đây đa dạng và cũng rất khắc nghiệt đã ảnh hưởng không nhỏ đến tình trạng cư trú, sinh hoạt, sản xuất của người Khmer và người Việt trong vùng. Các tư liệu sưu tầm được chủ yếu là ghi chép về công cuộc sinh sống và khai khẩn của người Việt, còn người Khmer thì chưa được chú ý ghi chép đầy đủ. Tác giả Sơn Nam trong công trình biên khảo Lịch sử khẩn hoang miền Nam cho rằng: “Những con số trên chỉ ghi những thôn xã do người Việt thành lập. Phía Hậu Giang ruộng nương chưa đến nổi ít oi, dân số không quá thưa thớt, chỉ vì phần Cương Vực Chí không ghi lại dân số, diện tích các sóc Cao Miên, tập trung ở vùng Trà Vinh, Bạc Liêu, Cần Thơ, Rạch Giá, Sóc Trăng. Riêng về vùng Hà Tiên ghi 6 phố, sở của người Tàu, 26 sóc Cao Miên và 19 xã thôn Việt Nam”[9].
Cư dân Khmer ở vùng này thuộc 2 tỉnh biên giới Tây Nam là An Giang và Kiên Giang. Người Khmer ở đây xây dựng phum sóc trên đồi hay trên các giồng ven kênh trong những vùng đất thấp hoặc ven chân núi quanh dãy Bảy Núi. Ngoài ra, người Khmer còn cư trú ven các thị trấn, thị xã như Tri Tôn, Hà Tiên, Rạch Giá, mặc dù sống ven quanh các thị trấn, thị xã nhưng họ theo thói quen, vẫn cư trú theo từng phum, sóc và làm ruộng nước.
- Vùng Trà Vinh – Vĩnh Long (còn gọi là vùng nội địa)
Địa hình vùng này phẳng thấp, có những sống đất dọc theo hai bờ sông Tiền, sông Hậu và những gờ đất chạy song song với bờ biển cao một vài mét. Những sống đất và gò đất này được người Khmer gọi là “phno” (giồng). Những giồng hay gò đất là vùng đất phù sa cổ, trên mặt là đất cát pha thịt, dưới sâu là đất sét, dễ thoát nước. Đây là những dải duyên hải xưa cũ mà đồng bằng trong quá trình tiến dần ra biển hình thành nên. Đây là một trong những vùng cư trú cổ xưa nhất của người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long mà minh chứng là những chùa tháp được xây dựng từ khoảng 400 năm về trước, hiện còn được bảo lưu ở đây. Phum sóc của người Khmer phần lớn được xây dựng trên các dải đất giồng, một số cư trú xen kẽ trong các trũng đồng ruộng mênh mông gọi là “ô”, một số cư trú ven kênh và ven bờ biển.
Trong số đó, vùng Khmer Sóc Trăng, Cần Thơ, Bạc Liêu là địa bàn cư trú cổ xưa nhất của người Khmer[10]. Theo nghiên cứu của một tác giả người Pháp thì vào khoảng năm 1886, người Khmer ở Trà Vinh chiếm khoảng 30% dân số, ở Sóc Trăng chiếm 27%, Rạch Giá 26%, Châu Đốc 18%, Bạc Liêu 18%, Cần Thơ 8%[11]. Do đó ta thấy người Khmer cũng chiếm một tỉ lệ dân số khá cao nhưng chưa phải là chiếm tỉ lệ tuyệt đối trong dân số Nam kỳ.
Đến thế kỷ XVII, vùng đồng bằng sông Cửu Long đã hình thành nên những cộng đồng dân cư do bàn tay những người nông dân nghèo Khmer tạo nên. Bên cạnh đó, những lớp cư dân người Việt từ vùng Thuận Quảng đến khai khẩn đất hoang ở đồng bằng sông Cửu Long và lập những làng người Việt đầu tiên ở Nam bộ. Vùng cư dân người Việt, người Khmer đã phát triển nhanh chóng. Để trực tiếp quản lý cư dân, năm 1698, chúa Nguyễn thiết lập ở đây bộ máy cai trị. Năm 1757, công cuộc Nam tiến của người Việt dần dần hoàn tất và tiến sâu đến vùng tận cùng Cà Mau. Dưới triều Nguyễn, tổng số người Khmer tuy không đến 150.000 người nhưng vẫn được coi là một sắc dân có đủ quyền lợi như người Việt[12].
Vốn là cư dân nông nghiệp, khi tới vùng đồng bằng sông Cửu Long, người Khmer đã tập hợp nhau lại thành những tập thể láng giềng nhỏ và tổ chức nó thành những đơn vị xã hội tự quản. Mỗi tập thể định cư trên một địa điểm bám sát đất trồng trọt gọi là phum. Đơn vị cao hơn phum và bao gồm nhiều phum gọi là srok (theo Việt hóa là sóc). Phum sóc không phải là đơn vị hành chính nhà nước, mà là những đơn vị xã hội cổ truyền, ràng buộc nhau bởi các phong tục, lễ nghi mà ngôi chùa là trung tâm sinh hoạt văn hóa.
Trong đời sống của các dân tộc Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long, phum là đơn vị cư trú thường bao gồm từ 5 – 7 gia đình, sống quây quần trong một khoảnh đất nhất định, trên những dải đất cao (được gọi là những “giồng đất, giồng cát”). Xung quanh phum thường trồng tre gai (loài tre có gai) bao quanh thay cho việc làm tường bao để bảo vệ các gia đình trong phum. “Lập phum, người ta chọn nơi đất tốt, cao ráo, xác định khuôn viên, trồng tre xung quanh để làm rào khép kín, quay mặt ra đường cái, có cổng ra vào, bên trong ngăn nắp, nhà ở theo thứ tự, từng hộ có nơi làm chuồng trâu, bò, heo, nơi chất rơm khô. Phum rộng còn có chút đất ở phía sau để mỗi hộ có thể trồng trọt chút ít rau, đậu, hành, ớt…”[13]. Các gia đình trong phum hầu hết đều có quan hệ huyết thống và quan hệ hôn nhân với nhau. Thông thường gồm gia đình của cha mẹ, gia đình của các con gái và con rễ. Ngoài ra, có thể còn thêm một vài gia đình không có quan hệ huyết thống, kể cả gia đình người Hoa và người Kinh.
Quản lý và điều hành phum do một người lớn tuổi có uy tín trong đồng bào đảm nhận, bất kể là đàn ông hay đàn bà và thường được gọi là “Mê phum” (trong tiếng Khmer me-ftech nghĩa là mẹ, là người cai quản gia đình. Về sau mở rộng ra nghĩa là trưởng, là người đứng đầu[14]) “Mê phum” có trách nhiệm chăm lo công việc nội bộ của phum và quan hệ với bên ngoài phum. Những công việc đó thường nặng về các hoạt động tín ngưỡng tôn giáo, như cúng Neakta, cúng Arăk, tổ chức lên chùa trong các ngày lễ, các công việc liên quan đến chu kỳ đời người như cưới hỏi, tang ma, vận động các gia đình giúp đỡ lẫn nhau trong đời sống, sản xuất và sinh hoạt…
Sinh hoạt của phum mang tính chất cộng đồng tự quản của một tập hợp người vừa có quan hệ cùng huyết thống lại vừa có quan hệ lãnh thổ láng giềng. Thành viên cấu trúc nên phum là những gia đình bà con huyết thống, nhưng đồng thời mỗi gia đình thành viên là một đơn vị kinh tế hoàn toàn độc lập. Mặc khác, nếu xét theo quan hệ huyết thống, thì tính liên kết huyết thống trong phum cũng rất lỏng lẻo, nó không đủ dể tạo nên những dòng họ có tính kế thừa lâu đời, nó cũng không có những loại của cải chung như đất hương hỏa, nhà từ đường… để làm cơ sở liên kết kinh tế chung.
Trong quá trình tụ cư, các phum của người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long đã hòa nhập với làng xóm của người Kinh và người Hoa, tạo điều kiện thuận lợi và thúc đẩy mạnh mẽ quá trình giao lưu văn hóa, đoàn kết, gắn bó, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc.
Ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, sóc của đồng bào Khmer cũng là một đơn vị cư trú, lớn hơn phum, tương tự như làng của người Việt. Mỗi sóc gồm nhiều phum và một ngôi chùa, những sóc lớn hơn có thể có hai ngôi chùa. Ngôi chùa là bộ mặt của phum sóc nên được xây dựng rất công phu, khang trang, thoáng mát. Việc quản lý sóc được giao cho ban quản trị sóc, mà người đứng đầu được gọi là “Mê sóc” do ban quản trị sóc bầu ra. Những thành viên trong ban quản trị được nhân dân tuyển chọn trong số những đàn ông lớn tuổi có uy tín, có trình độ học vấn, hiểu biết phong tục, tập quán, có tinh thần trách nhiệm với đồng bào. Cùng với ban quản trị, “Mê sóc” trông coi điều hành các công việc chung thuộc nội bộ của sóc, thay mặt cho các thành viên trong sóc thực hiện các công việc đối ngoại, duy trì mối liên hệ thường xuyên giữa nhà chùa với dân sóc.
Do ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo Theravada (Phật giáo tiểu thừa hay Phật giáo Nam tông), bên cạnh bộ máy tự quản phum, sóc còn có hệ thống tổ chức nhà chùa. Đứng đầu mỗi chùa có một vị sư cả (lục gru) là người trụ trì ngôi chùa, vị lãnh đạo tôn giáo cao nhất của một hoặc vài sóc. Trong tâm thức người Khmer, sư cả được coi là đại diện cho đức Phật, những lời giáo huấn của ông được nhân dân tôn trọng và thực thi một cách nghiêm túc. Trong mỗi chùa cùng với sư cả và các sư sãi chuyên lo các việc tôn giáo còn có tổ chức của tín đồ là ban quản trị chùa (Knã kô ma ca wat) gồm có ông chủ chùa (Nhôm wat), thầy phụ trách nghi lễ (Acha wat) và các vị khác phụ trách về tài chính, Phật sự. Ban quản trị chùa thay mặt nhà chùa đứng ra tổ chức, hoạch định chương trình các buổi lễ, định địa tô cho chùa, giải quyết những vấn đề Phật sự như sửa sang, trùng tu chùa, tìm kiếm những ngân khoản chi tiêu cho nhà chùa…
Cho đến trước khi có lưu dân người Việt, người Hoa, và sau đó là người Chăm đến vùng đồng bằng sông Cửu Long thì người Khmer là thành phần cư dân duy nhất cư trú ở đây. Họ quần tụ theo từng phum, sóc đầu tiên trên các giồng đất, giồng cát. Phum sóc không phải là đơn vị hành chính chính thức. Xã hội người Khmer lúc bấy giờ là hoàn toàn tự quản với bộ máy quản lý điều hành hết sức giản đơn. Đặc biệt, khi quần cư ở đâu, người Khmer đều lập chùa thờ Phật. Mỗi sóc có một chùa, sư sãi được đề cao. Mọi mâu thuẫn trong xã hội đều do các sư dàn xếp, phân xử. Tình hình biệt lập và tự quản như thế kéo dài cho tới khi triều đình phong kiến nhà Nguyễn vươn tới kiểm soát và thiết lập hệ thống hành chính nhà nước tại đây. Trong khuôn khổ bộ máy cai trị của các vua chúa nhà Nguyễn, phum sóc Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long đã bị tích hợp vào các xã ấp chính thức của chính quyền. GS. Mạc Đường đã nhận xét rằng: “Cho đến thế kỷ XVII, người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long vẫn sống khu biệt và không có mối quan hệ hành chính với bất cứ quốc gia nào thời đó”[15]. Xã hội truyền thống của người Khmer trước đây là sự kết hợp giữa tổ chức tự quản của cộng đồng với sự tham gia của tổ chức nhà chùa. Sự đan xen hỗn hợp này đã tạo cho xã hội truyền thống của người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long một đặc tính xã hội riêng biệt khác với nhiều tộc người khác.
[1] Theo Nguyễn Khắc Cảnh (2000), “Quá trình hình thành tộc người của người Khmer từ thế kỷ VI đến thế kỷ XIII”, In trong Văn hóa Nam bộ trong không gian xã hội Đông Nam Á, Nxb. Đại học Quốc gia Tp. HCM, tr. 205.
[2] Nguyễn Khắc Cảnh (2000), “Quá trình hình thành tộc người của người Khmer từ thế kỷ VI đến thể kỷ XIII”, Bđd, tr. 206.
[3] Võ Sĩ Khải (2007), Giai đoạn chuyển tiếp từ Phù Nam đến Chân Lạp, in trong Khoa học xã hội Nam Bộ, Sđd, trang 148.
[4] Võ Sỉ Khải (1987), Đất Gia Định thế kỷ VII đến thế kỷ XVI, in trong Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng (chủ biên), Địa chí văn hóa TP HCM, tập 1, Sđd, trang 82. Và Vũ Minh Giang (chủ biên, 2008), Lược sử vùng đất Nam Bộ, Sđd, trang 23
[5] Vũ Minh Giang (2007), Chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ, in trong Khoa học xã hội Nam Bộ, Sđd, trang 209.
[6] Theo Võ Văn Sen (chủ biên, 2010), Một số vấn đề cấp bách trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa của người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long, Nxb. Đại học Quốc gia Tp. HCM, trang 22.
[7] Dẫn theo Huỳnh Lứa (1987), Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ, Nxb. Tp.HCM, tr.49.
[8] Nguyễn Khắc Cảnh (1998), Phum sóc Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long, Nxb. Giáo dục, tr. 36.
[9] Sơn Nam (2009), Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Nxb. Trẻ, Tp. HCM, tr. 66.
[10] Nguyễn Khắc Cảnh (2000), Sự hình thành cộng đồng người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long, In trong Văn hóa Nam Bộ trong không gian xã hội Đông Nam Á, Nxb. ĐHQG TPHCM, tr. 221.
[11] J. Bouault (1930), Géographie de L’Indochine, Vol III: La Cochinchine, Imprimerie D’Extrème Orient, Ha Noi, tr.20.
[12] Lê Hương (1969), Người Việt gốc Miên, Sài Gòn, tr. 28.
[13] Thạch Voi (1988), Khái quát về người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long, in trong Tìm hiểu vốn văn hóa dân tộc Khmer Nam Bộ, Nxb. Tổng hợp Hậu Giang, tr. 22.
[14] Nguyễn Khắc Cảnh (2000), Sự hình thành cộng đồng người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long, Sđd, tr. 222.
[15] Nguyễn Khắc Cảnh (2000), Sự hình thành cộng đồng người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long, Sđd, tr. 225.
Tin cùng chuyên mục:
Khó khăn và giải pháp khắc phục trong triển khai nhiệm vụ nộp lưu tài liệu lưu trữ số
Thực trạng triển khai công tác lưu trữ điện tử của Ủy ban Dân tộc
Văn học Sài Gòn 1954-1975 những chuyện bên lề
Sài Gòn 1698-1998 Kiến trúc quy hoạch