Đặc điểm hoạt động kinh tế của người Khmer ở Nam kỳ
Người Khmer là một dân tộc ít người của nước ta, có địa bàn cư trú trên vùng đồng bằng sông Cửu Long và là một cư dân nông nghiệp. Nền kinh tế của người Khmer chủ yếu dựa trên việc chuyên canh lúa nước. Người Khmer có truyền thống sản xuất nông nghiệp từ khá sớm và phong phú. Nền kinh tế của người Khmer mang tính chất sản xuất nhỏ và độc canh, kỹ thuật canh tác còn nhiều hạn chế. Đó là một nền kinh tế mang tính chất tự cấp tự túc và còn lệ thuộc nặng nề vào thiên nhiên.
Sản xuất nông nghiệp
Trước hết có thể khẳng định rằng nông nghiệp là nguồn cung cấp lương thực thực phẩm chủ yếu cho đời sống con người, cho chăn nuôi và trao đổi hàng hóa của người Khmer.
Ngay từ khi định cư và khai phá vùng đồng bằng sông Cửu Long, người Khmer nước ta đã sinh sống bằng sản xuất nông nghiệp. Đó là kỹ thuật gieo trồng lúa nước (Orysa Sativa) và các cây lương thực, hoa màu. Bên cạnh đó, qua quá trình chung sống với người Việt, người Khmer đã tiếp thu thêm một số kinh nghiệm gieo trồng của nông dân Việt, làm phong phú thêm vốn sản xuất nông nghiệp của mình.
Trong sản xuất nông nghiệp, người Khmer đồng bằng sông Cửu Long đã biết phân biệt các loại ruộng đất để gieo trồng, lựa chọn các loại giống thích hợp và tiến hành nhiều biện pháp, kỹ thuật canh tác, thủy lợi…để đem lại hiệu quả trong sản xuất.
– Các loại ruộng và đất
Người nông dân Khmer phân chia đất đai gieo trồng thành hai loại: ruộng và đất rẫy. Căn cứ và việc gieo trồng cây lúa nước hay hoa màu mà nông dân Khmer gọi là đất ruộng (srê) hay đất rẫy (chămka). Ruộng dành để trồng các loại lúa nước (kể cả nếp), còn rẫy trồng hoa màu, cây lương thực phụ (một vài nơi trồng lúa rẫy). Có nơi cùng mảnh đất đó vụ này trồng lúa gọi là “srê”, nhưng vụ tiếp theo trồng dưa hấu, rau đậu thì gọi là “chămka” của người Khmer đồng bằng sông Cửu Long tương đối cố định, gần như đất vườn, đất rẫy của người Việt, đất chămka ở quanh phum sóc, gần nơi cư trú để tiện chăm sóc cây trồng.
Đất ruộng (Srê) của người Khmer chia thành các loại chủ yếu sau đây:
+ Ruộng gò (Srê toul): loại ruộng này nằm trên các vùng đất cao hoặc ven các giồng (phno), độ cao so với mặt bằng bên dưới từ 1-1,5m. Ruộng gò là lớp đất thịt pha cát, dễ bị bào mòn và thoát nước. Srê toul thường hay bị khô hạn, năng suất lúa thấp. Loại srê toul chỉ thích hợp với các giống lúa ngắn ngày, chịu hạn và thường chỉ gieo cấy một năm một vụ vào thời gian có mưa.
+ Ruộng thấp (Srê tưnếp): đây là loại ruộng tương đối phổ biến ở vùng nông thôn Khmer. Srê tưnếp thường là những cánh ruộng trải dài như vùng Khmer Sóc Trăng. Bề mặt của Srê tưnếp gồm nhiều lớp đất thịt pha cát, bên dưới là lớp đất sét giữ nước khá tốt nhưng dễ bị chua phèn. Ở những vùng gần biển, srê tưnếp còn chịu ảnh hưởng ngập mặn của nước triều vào mùa khô. Srê tưnếp thích hợp với lúa vụ mùa từ tháng 5 đến tháng 11 hàng năm. Nếu có đủ nước, srê tưnếp có thể gieo trồng mỗi năm 2 vụ.
+ Ruộng rộc (Srê lattô): đây là loại ruộng đặt biệt chỉ có ở vùng Khmer cư trú lâu đời như Trà Vinh, Sóc Trăng… Srê lattô là những mảnh ruộng nằm giữa hai giồng gần nhau và chạy song song nhau. Việc tưới nước cho Srê lattô khá thuận tiện, vì vậy Srê lattô được gieo trồng quanh năm. Ngoài hai vụ lúa hàng năm, người nông dân Khmer còn trồng các loại rau, hoa quả…Trong thời gian này, Srê lattô trở thành các mảnh chămka.
+ Ruộng bưng (Srê chumrơn): ruộng Srê chumrơn vốn hình thành từ các bưng, bàu trũng đã khô cạn dần. Srê chumrơn thường gặp ở các vùng đất đai tương đối thấp và ứ đọng nước. Ruộng Srê chumrơn là loại ruộng tốt của người Khmer, mỗi năm có thể cấy hai vụ. Loại ruộng này khi gieo trồng thường không cần phân bón, nhờ lớp bùn hữu cơ rất dày của cỏ mục nên lúa rất tốt.
+ Ruộng lúa nổi (Srê lơntưk): srê lơntưk còn gọi là srê prươ (ruộng sạ). Srê lơntưk chỉ có trong vùng tứ giác Long Xuyên, là nơi ngập nước từ tháng 8 đến tháng 11 hàng năm.
Chămka (rẫy): mỗi gia đình Khmer thường có một phần đất chămka nho nhỏ ở gần nơi cư trú để trồng hoa màu, rau đậu. Ở Ba Thê, Bảy Núi (An Giang) chămka của người Khmer nằm trên các sườn đồi và trồng loại lúa rẫy. Nông dân Khmer ở một số vùng đã gieo trồng trên đất rẫy nhiều loại hoa màu có giá trị kinh tế cao như hành đỏ, tỏi (Vĩnh Châu), dưa hấu (Sóc Trăng)…
– Các vụ mùa và giống lúa
Vụ mùa của người Khmer thường bắt đầu từ tháng 4 hàng năm là thời gian khởi đầu của mùa mưa ở đồng bằng sông Cửu Long. Tùy theo điều kiện thổ nhưỡng, thủy lợi, thời tiết…của từng địa phương cư trú, mà người Khmer có các vụ mùa như:
+ Lúa mùa (Sơrâu rơđâu): đây là vụ lúa chính của nông dân Khmer và phổ biến ở hầu hết các vùng có người Khmer tụ cư ở đồng bằng sông Cửu Long. Từ sau tết Chol Thnam Thmei (Tết mừng năm mới) cùng với những cơn mưa đầu mùa, nông dân Khmer bắt tay vào làm đất, gieo mạ…Vụ mùa kéo dài suốt từ đầu mùa mưa cho đến đầu mùa khô, tức là từ giữa tháng 4 đến tháng 12 và tháng Giêng năm sau. Lúc vụ mùa có năng suất cao, chất lượng thơm ngon.
+ Lúa sớm (sơrâu sơral): ở một số nơi, nông dân Khmer còn gọi vụ lúa này là sơrâu prapei (lúa nhẹ). Vụ lúa sơrâu sơral thường gieo trên các ruộng gò (srê toul), và gieo vào khoảng cuối tháng 2 đầu tháng 3 dương lịch, thu hoạch vào khoảng tháng 6, tháng 7 trong năm.
+ Lúa muộn (sơrâu thơuôl): các giống lúa dùng cho vụ sơrâu thơuôl có thời gian sinh trưởng kéo dài và cho năng suất cao. Sơrâu thơuôl được gieo cấy trên những ruộng bưng (srê chumrơn) là những cánh đồng ngập nước kéo dài, nhiều mùn, cho nên cây lúa phát triển rất thuận lợi.
+ Lúa nổi (Sơrâu lơntưk): đây là vụ lúa duy nhất trong năm được gieo sạ trên các cánh đồng ở tứ giác Long Xuyên. Lúa được gieo vào cuối tháng 6, sơrâu lơntưk thu hoạch vào đầu tháng 11 khi nước bắt đầu rút.
– Vài nét về kỹ thuật canh tác
Cũng như nhiều cư dân nông nghiệp ở nước ta, người Khmer đồng bằng sông Cửu Long từ sớm đã hình thành nên một hệ thống kỹ thuật canh tác lúa nước thích hợp với điều kiện tự nhiên vùng đồng bằng sông Cửu Long và cũng chịu ảnh hưởng kỹ thuật trồng lúa nước của người Việt. Một số khâu kỹ thuật gieo trồng lúa nước của người Khmer được tiến hành như sau:
+ Làm đất: kỹ thuật làm đất chiếm một vị trí quan trọng trong việc gieo cấy lúa và ảnh hưởng đến năng suất cây trồng. Khâu làm đất bao gồm: làm đất mạ, dọn ruộng cấy và dọn ruộng sạ. Sau những ngày vui tết Chol Thnam Thmei, nông dân Khmer bắt tay vào công việc cày bừa dọn đất. Nông dân Khmer sử dụng một loại cày (nolkal) tương đối thô sơ nhưng có phần chắc chắn hơn cày của người Khmer ở Campuchia, thích hợp với đất đai đồng bằng sông Cửu Long ít pha cát và nhiều đất thịt. Ruộng được cày vỡ sau khi đã phát bờ, sửa chữa bờ ruộng chu đáo, tránh sụt lỡ, rò rỉ nước. Đất cày lần đầu được để một thời gian ngắn cho khô và ải, sau đó mới bừa vỡ ra. Người nông dân Khmer không chỉ cày bừa một lần mà thường nhiều lần.
+ Làm mạ: cũng giống như người Việt, ruộng (hoặc đất) gieo mạ của nông dân Khmer thường là mảnh đất chuyên dụng, ở gần phum sóc, thuận tiện nước tới (để đưa nước vào và ra). Ruộng mạ đòi hỏi phải thật bằng phẳng, tránh lồi lõm để đừng có nơi đọng nước hoặc khô nước. Đất gieo mạ được dọn trước khi dọn ruộng gieo cây, thường là sau khi ăn Tết Chol Thnam Thmei. Thóc giống để cách vụ được ngâm nước và ủ cho nẩy mầm trên các nong, hoặc liếp đan bằng tre. Vào hôm gieo mạ, ruộng mạ được tháo cạn nước, chỉ còn lớp bùn mỏng trên mặt ruộng, hạt thóc gieo xuống vùi nông vào lớp bùn đó. Vài hôm sau, khi rễ mầm bén xuống mặt ruộng, nhân dân Khmer lại tháo nước lấp xấp giữ cho hạt mầm phát triển bình thường. Phải khoảng một tuần, sau khi cây mạ cao hơn đốt ngón tay, ruộng mạ mới được tháo thêm nước cho ngập chân mạ. Cứ như vậy cho đến khi mạ trưởng thành, nước luôn luôn ngập chân mạ.
+ Cấy lúa: đất ruộng cấy đã được dọn sẵn, và mạ cũng đã đến tuổi. Mạ được nhổ lên, rủ sạch bùn đất và bó thành từng bó nhỏ. Đầu ngọn mạ được cắt bằng, sau đó rễ mạ được dầm vào các vũng nước phân trâu qua một đêm trước khi đưa ra ruộng cấy. Thường mạ chỉ để qua đêm là cấy ngay, kéo dài, mạ sẽ úa vàng và hạn chế sức phát triển của cây lúa về sau.
+ Chăm sóc: trong quá khứ, người Khmer không biết dùng phân bón và làm cỏ lúa, việc chăm sóc lúa chủ yếu là giữ nước và ngăn không cho chuột bọ, sâu rày phá lúa. Hệ thống thủy lợi của người Khmer đã được nhiều người biết đến, tuy nhiên đến nay hầu như đã bị quên lãng và không còn tác dụng. Một vài nơi gần sông, người Khmer biết sử dụng các bờ đập (thnôp) để giữ nước hoặc tiêu nước, chủ yếu là để cải tạo đất và giữ nước làm mùa. Nguồn nước làm mùa của người Khmer chủ yếu là nước mưa.
+ Thu hoạch: vào khoảng cuối mùa thu, đầu mùa khô, tức cuối tháng 11-12 đến đầu tháng Giêng năm sau, những cánh đồng lúa ở vùng nông thôn Khmer đồng bằng sông Cửu Long bắt đầu chín vàng, rộ nhất là vào giữa tháng 12, đó cũng là vào mùa thu hoạch lúa của nông dân Khmer.
Việc gieo trồng cây lúa chiếm vị trí chủ yếu trong sản xuất nông nghiệp của người Khmer ở Nam bộ. Ngoài ra việc canh tác các loại cây lương thực như khoai, sắn, ngô (bắp),… và các loại rau đậu, hoa màu cũng được chú ý. Việc gieo trồng các loại cây này được tiến hành rộng rãi trên các đất “chăm ka”, hoặc xen canh trên ruộng giữa các vụ lúa. Phổ biến ở các vùng Khmer là việc trồng bắp, khoai lang, khoai mì, các loại rau đậu… có một số ít vùng chuyên canh hoa màu của người Khmer. Tại những vùng chuyên canh, nông dân Khmer đã nắm vững kỹ thuật gieo trồng các loại đặc sản như việc chọn giống, để giống, tưới nước, dùng phân bón hữu cơ. Nguồn nước tưới cho các rẫy chuyên canh một phần dựa vào nước mua, một phần do các giếng của người Khmer đào tại nơi ruộng rẫy.
Tập quán canh tác nông nghiệp của người Khmer có nhiều mặt đáng chú ý, nhưng nổi bật hơn hết là cách vần đổi công (yôdei). Hình thức “yôdei” rất phổ biến ở vùng nông thôn Khmer để tập trung sức người kịp hoàn thành công việc gieo trồng, thu hoạch đúng thời vụ. Hình thức “yôdei” không chỉ áp dụng trong công việc sản xuất, nông dân Khmer còn “yodei” trong các việc quan trọng khác như làm nhà, tang ma, cưới xin,…[1]
Các hoạt động kinh tế khác
Ngoài sản xuất nông nghiệp chiếm phần chủ yếu và quan trọng, người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long còn có một số hoạt động kinh tế khác.
+ Thủ công nghiệp: hoạt động thủ công nghiệp của người Khmer chủ yếu là cung cấp những vật dụng sinh hoạt trong gia đình như đan lát, chế tạo các đồ dùng, bằng tre, bằng mây…như các loại thùng múng, rổ rá, bàn ghế, nông cụ (cày, bừa, cối xay…) Nghề thủ công được thực hiện trong những lúc rảnh rỗi công việc đồng áng và gắn với những sinh hoạt gia đình. Mọi người, mọi lứa tuổi, đều có thể tham gia công việc. Nghề dệt chiếu phát triển rộng rãi ở Vĩnh Châu (Hậu Giang). Ở Tri Tôn (An Giang), Sóc Xoài (Kiên Giang) có nghề làm gốm, đặc biệt là nồi đất và cà ràng được người Khmer đánh giá cao, có thời sản phẩm bán sang tận Campuchia. Nghề chăn tằm dệt lụa và dệt sợi bông cũng từng có thời phát triển ở vùng nông thôn Khmer như Cầu Kè, Cầu Ngang (Cửu Long), An Giang.
+ Chăn nuôi: chăn nuôi ở vùng Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long chưa tách hẳn khỏi nông nghiệp, vẫn còn mang tính chất gia đình và nhằm tận dụng nguồn nông sản dư thừa, vương vãi. Hầu hết các gia đình nông dân Khmer đều có chăn nuôi trâu, bò, heo, gà, vịt…
+ Đánh cá: vùng đồng bằng sông Cửu Long, nơi cư trú của người Khmer nhiều kênh rạch, ven bờ biển như các huyện Vĩnh Châu, Trà Cú, Bạc Liêu, ven các sông lớn như sông Tiền, sông Hậu, là nơi có nhiều cá tôm, thủy sản. Người Khmer đã sớm biết được các kỹ thuật đánh bắt cá nước ngọt, nước lợ và ven biển.
+ Thương nghiệp: số người Khmer sống bằng buôn bán rất ít, phần nhiều là những người sống ở tỉnh lỵ, thị trấn và có quan hệ hôn nhân với người Hoa. Trong lĩnh vực buôn bán, hầu hết người Khmer buôn bán nhỏ, với các cửa hiệu tạp hóa, dịch vụ vụn vặt, vừa ít vốn lại ít hàng. Hàng hóa của người Khmer buôn bán bao gồm các nhu yếu phẩm trong đời sống, một số sản phẩm thủ công, thực phẩm…Một số gia đình Khmer buôn bán tuy có cửa hàng ở thị trấn, thị tứ nhưng nguồn sống lại trông vào sản phẩm nông nghiệp, họ vừa buôn bán vừa làm ruộng.
Người Khmer Nam kỳ là cư dân nông nghiệp. Nghề nông là hoạt động kinh tế chủ yếu, chiếm vai trò quan trọng, chi phối toàn bộ đời sống xã hội, văn hóa của vùng Khmer. Trong sản xuất nông nghiệp, người Khmer có kỹ thuật canh tác khá phong phú và hiệu quả. Đó chính là kết quả của người nông dân Khmer trong quá trình chinh phục vùng đồng bằng sông Cửu Long và sự giao lưu văn hóa với các dân tộc anh em Việt, Hoa, Chăm…cùng định cư tại vùng đất Nam bộ này.
Cùng với hoạt động sản xuất nông nghiệp là chính, người Khmer còn có một số hoạt động kinh tế phụ khác như thủ công nghiệp, ngư nghiệp, chăn nuôi, thương nghiệp…
Tuy nhiên, nhìn chung nền kinh tế của người Khmer ở Nam kỳ từ trước thế kỷ XIX nổi lên một số đặc điểm:
- Sản xuất nông nghiệp của người Khmer mang tính chất độc canh. Việc gieo trồng cây lúa là chủ yếu, chiếm hết đất đai và công sức của nông dân Khmer, còn hoa màu và cây ăn quả chưa được chú ý nhiều và thỏa đáng. Việc độc canh cây lúa rõ ràng chưa tận dụng hết khả năng đất đai và nhân lực vốn rất dồi dào ở vùng nông thôn Khmer nơi đây.
- Sản xuất nông nghiệp của người Khmer vẫn là một nền sản xuất nhỏ và còn phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên. Chính những điều đó đã hạn chế rất nhiều kết quả sản xuất cũng như sự đổi mới của vùng nông thôn Khmer này.
- Các hoạt động kinh tế phụ như thủ công nghiệp, chăn nuôi…vẫn chưa tách khỏi sản xuất nông nghiệp, vẫn còn phụ thuộc vào nông nghiệp, đã hạn chế rất nhiều tiềm năng lao động của người lao động Khmer.
- Nền kinh tế của người Khmer đồng bằng sông Cửu Long còn mang tính chất tự cấp tự túc. Nông sản và các sản phẩm thủ công, chăn nuôi…hầu như chỉ đủ cung cấp cho sinh hoạt của phum sóc, của gia đình nông dân. Việc trao đổi hàng hóa, nông dân tham gia vào các hoạt động thị trường hầu như rất ít. Kinh tế hàng hóa chưa phổ biến và chưa chiếm vị trí thỏa đáng ở vùng nông thôn Khmer.
[1] Theo Phan An (1991), Một số vấn đề kinh tế xã hội của vùng nông thôn Khmer đồng bằng sông Cửu Long, In trong Vấn đề dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long, Nxb.Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.120 – 121.
Tin cùng chuyên mục:
Khó khăn và giải pháp khắc phục trong triển khai nhiệm vụ nộp lưu tài liệu lưu trữ số
Thực trạng triển khai công tác lưu trữ điện tử của Ủy ban Dân tộc
Văn học Sài Gòn 1954-1975 những chuyện bên lề
Sài Gòn 1698-1998 Kiến trúc quy hoạch