1. Tôn chỉ, mục đích
Ngày 2 tháng 9 năm 1954, “chiếu đơn của Ban Trị sự lâm thời của hội Cần lao Nhân vị Cách mạng Đảng” [[1]] Bộ Trưởng Bộ Nội vụ Quốc gia Việt Nam, Nguyễn Ngọc Thơ ký Nghị định số 116/BNV/CT chính thức cho phép Đảng Cần lao ra hoạt động. [[2]]
Ban Chấp hành Trung ương có các ủy viên: Trần Trung Dung, Nguyễn Tăng Nguyên, Lý Trung Dung, Hà Đức Minh, Trần Quốc Bửu, Võ Như Nguyện, Lê Văn Đông do Ngô Đình Nhu làm Tổng bí thư.
Trước đó, tháng 8 năm 1954, đảng cương, đảng quy của đảng được công bố, quy định mục đích, tôn chỉ, tên gọi, nguyên tắc hoạt động, phương thức tổ chức và đảng viên của đảng.
Tài liệu về đảng cương của đảng cho biết, tên đảng lúc đầu là “Nông công Nhân vị cách mạng Đảng”, sau sửa “Cần lao Nhân vị cách mạng Đảng” với mục đích “tranh đấu để thực hiện lý tưởng cách mạng Nhân vị”, “chương trình hoạt động của đảng hướng vào việc: đoàn kết các tầng lớp dân chúng; kiến thiết Quốc gia trên bốn lĩnh vực: tinh thần – xã hội – chánh trị và kinh tế” và hoạt động theo nguyên tắc “dân chủ tập trung”. [[3]]
Gia nhập đảng “tất cả những người Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt nam nữ, tôn giáo, nghèo giàu, trình độ văn hóa. Tin theo mục đích, tôn chỉ và thừa nhận kỷ luật của đảng, được hai đảng viên giới thiệu”. [[4]]
Tuyên ngôn của Đảng Cần lao được phổ biến rộng rãi với những ngôn từ cổ súy cho sự tự do, dân chủ theo kiểu Nhân vị. Một mặt lên án chủ nghĩa Tư bản: “công nghệ cực kỳ bành trướng mà con người vẫn bị đói rét. Những phát minh khoa học, đã cải tạo được cả thiên nhiên, mà chỉ nhằm “lợi nhuận”, không hề có mục đích phục vụ “nhu cầu” của đại đa số. Bọn tư bản xảo quyệt đã dùng đủ mọi mánh khóe, để chà đạp lên phẩm giá con người, mà xây dựng sự nghiệp giàu sang trên xương máu của dân chúng Cần lao”. [[5]] Đồng thời xuyên tạc chủ nghĩa xã hội khi cho rằng: “dưới áp lực của đoàn thể ở nơi này, cũng như ích kỷ cá nhân ở nơi khác, đời sống tinh thần và vật chất của con người trở thành nô lệ truyền kiếp để phụng sự cho chủ nghĩa duy vật”. [[6]]
Vì vậy, “hơn bao giờ hết, một cao trào xây dựng phải đặt lại nhân dân Thế giới vào một hướng Nhân sinh quan mới, lành mạnh, để kế tục cuộc cách mạng tiến hóa không ngừng của Nhân loại: Cách mạng Nhân vị giải phóng toàn diện con Người. … ai nấy đều kiên quyết dốc toàn lực làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình là bảo vệ an ninh về kinh tế, công lý về xã hội, bình đẳng về chính trị và giữ toàn vẹn giá trị tinh thần của con người chúng ta”. [[7]]
Đảng quy của đảng cũng được phổ biến, gồm 8 chương, 40 điều, nêu rõ mục đích, tôn chỉ và quy định cụ thể về tổ chức, nguyên tắc hoạt động, đảng ca, đảng kỳ, ấn tín và quy định về tổ chức kết nạp, cũng như lễ tuyên thệ nhập đảng.
Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh nguyên tắc hoạt động bí mật “tiềm lực của Đảng là cơ sở bí mật tối cần thiết để bảo vệ cho các bộ phận công khai gặp khi tình thế thúc đẩy các hoạt động của Đảng phải rút hoàn toàn vào bí mật”. [[8]]
Đồng thời, nhấn mạnh vai trò của Đảng Cần lao đối với chính quyền “Nếu cần phải ứng phó với một tình trạng khẩn trương đặc biệt, Trung ương cũng có trọn quyền chuyển toàn bộ cơ sở thành những cơ cấu tổ chức hoạt động quyết liệt để nắm vững phần chủ động trong mọi hoàn cảnh. Ví dụ: nếu xét cần, cũng có thể thiết lập một Ủy ban chỉ đạo chánh trị, một quân ủy hội, một bộ máy phòng gian và phản gián, một cơ quan quân pháp, một tổ chức xã hội (y tế, cứu tế,…) trong tình thế đặc biệt, v. v…” [[9]] Sẵn sàng thay thế chính quyền khi cần thiết.
Tuy nhiên, dưới sự bảo trợ của Mỹ nhằm tạo cho chính quyền Diệm một bộ mặt dân chủ giả hiệu, hòng che đậy những âm mưu đen tối của Mỹ – Diệm, nên ngày 8/8/1954, Nhu chỉ đưa một phần cơ sở Đảng ra hoạt động công khai, còn “tiềm lực của Đảng phải nằm trong tổ chức bí mật”. [[10]] “Trong giai đoạn hiện thời, để ứng phó với tình thế, để các cấp bộ trực tiếp lãnh đạo Phong trào cách mạng quốc gia, hoàn thành nhiệm vụ lớn lao”. [[11]]
Vì vậy, đến năm 1955, khi chế độ Việt Nam Cộng hòa ra đời, phần lớn lực lượng của Đảng Cần lao nằm trong bóng tối, hoạt động của nó được thông qua các tổ chức ngoại vi với danh nghĩa là các đoàn thể chính trị xã hội, đặc biệt là Phong trào Cách mạng Quốc gia. Ngoài ra còn có các đoàn thể, như: Thanh niên, thanh nữ Cộng hòa; Phong trào Phụ nữ Liên đới,…
Để công khai đưa chủ thuyết Nhân vị và đảng viên Cần lao vào cơ cấu chính quyền, năm 1956, anh em Diệm cho thành lập Trung tâm Nhân vị nằm trong giáo phận Vĩnh Long, đặt dưới quyền quản lý trực tiếp của Ngô Đình Thục. Ban giám đốc và ban giảng huấn đều là các linh mục hoặc là tín đồ Thiên chúa giáo.
2. Tổ chức
Đảng Cần lao được tổ chức gồm các cơ sở đảng, đơn vị cơ sở là chi bộ, trong chi bộ có tổ đảng thì Nhu gọi là Tiểu tổ. Nhiều chi bộ trong một xã, phường lập thành đảng bộ xã, đảng bộ phường, thì Nhu đặt tên là Xã bộ hay Phường bộ. Với một cách như vậy, nhiều xã bộ hay phường bộ họp thành Huyện bộ hoặc Quận bộ. Nhiều Quận, huyện bộ họp thành Tỉnh bộ hoặc Thành bộ, nhiều tỉnh bộ họp thành Khu bộ và các khu bộ họp thành Trung ương toàn quốc.
Trong mỗi tổ chức ở các cấp có Ban Chấp hành với số ủy viên tương ứng theo quy định. Mỗi Ban Chấp hành, tùy theo các cấp lại bầu ra Ban Thường vụ từ 3 đến 15 người, gồm các chức danh: Bí thơ, Phó Bí thơ, Thủ quỹ, Ủy viên thường trực, Ủy viên chuyên môn và Ủy viên kiểm soát.
Các bộ phận chuyên môn trong các cơ cấu tổ chức các cấp: Tổ chức và Kiểm tra gọi tắt là Tổ – kiểm; Kinh tế và Tài chính gọi là Kinh – tài; Tuyên truyền và Tuyên huấn gọi là Tuyên – huấn; Nghiên cứu Kế hoạch gọi là Kế hoạch.
Đặc biệt trong chương thứ tư của đảng quy, Đảng Cần lao quy định còn có “các ủy ban đặc biệt”, mà tùy theo tình hình quốc gia, Ủy ban Chấp hành Trung ương có thể xin đại hội cấp quốc gia để tổ chức các ủy ban đặc biệt, ngoài những cơ cấu chuyên môn của Đảng. Ban Chấp hành sẽ cử ủy viên phụ trách như:
- a) Ủy ban Thanh, Thiếu, Nhi: tổ chức phong trào thanh, thiếu niên, thanh, thiếu nữ và nhi đồng.
- b) Ủy ban Quân vụ: chịu trách nhiệm về các cơ sở có tính chất quân sự. nghiên cứu và tổ chức Binh đoàn khi cần thiết.
- c) Xây dựng một phong trào quần chúng: để tập hợp những phần tử chống cộng nhưng không có điều kiện ra nhập Đảng.
- d) Tổ chức những nhóm nghiên cứu chánh trị xã hội: để tập hợp các trí thức, sinh viên chưa tiện gia nhập Đảng. [[12]]
Để trực tiếp điều khiển guồng máy hoạt động của Đảng, ngoài hoạt động của Ban Chấp hành Trung ương, anh em Diệm còn cho thành lập ở miền Nam và miền Trung Việt Nam, mỗi miền một văn phòng của Đảng Cần lao.
+) Văn phòng Đảng vụ tại Sài Gòn
+) Văn phòng Cố vấn chỉ đạo tại miền Trung do Ngô Đình Cẩn đứng đầu, có nhiệm vụ thường trực chỉ đạo tại miền Trung.
+) Kỳ bộ Bắc Việt
Lực lượng và tổ chức cơ bản của Đảng Cần lao, trên cơ sở sát nhập các tổ chức phản độn với cái gọi là “Mặt trận Quốc gia chống Cộng”, “Phong trào Dân chúng liên hiệp” và “Phòng trào xã hội Công giáo”. Sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, lực lượng này trở thành lực lượng nòng cốt, dưới sự chỉ đạo của Mỹ, dụ dỗ, cưỡng bức đồng bào miền Bắc di cư vào Nam.
Vào Nam, các tổ chức phản động này tụ hợp lại thành lập ra cói gọi là Kỳ bộ Bắc Việt gồm 16 tỉnh bộ theo cơ cấu hành chính miền Bắc, như: tỉnh bộ Thái Bình, tỉnh bộ Ninh Bình,… và 20 Liên chi bộ rải khắp vùng Nam bộ, cùng một số chi bộ đặc biệt với tổng số 15.382 đảng viên mà thành phần chủ yếu là những người Công giáo. Dù là một tổ chức Đảng, nhưng Kỳ bộ Bắc kỳ lại có quân đội riêng (Bảo Chính đoàn), có chính quyền riêng (Ủy ban Bảo vệ Bắc Việt) và có gần 1 triệu dân di cư,… trong đó có hơn hai phần ba là người Công giáo.
Đến cuối năm 1954, Diệm – Nhu sáp nhập Bảo Chính đoàn vào Quân đội Quốc gia, giải tán cơ cấu của Ủy ban Bảo vệ Bắc Việt, ngày 16-11-1955, Kỳ bộ Bắc Việt tổ chức đại hội tại một địa điểm bí mật ở Sài Gòn. Từ đây, tổ chức phản động này thực sự trở thành một kỳ bộ Đảng với Ban Chấp hành do Trần Trung Dung làm bí thư và trở thành “chỗ dựa” tin cậy của Đảng Cần lao. Với nhiệm vụ của nó là luồn sâu vào các cơ cấu chính quyền, có chân rết ở hầu khắp các tỉnh Nam bộ, thực hiện theo dõi, giám sát và sẵn sàng tổ chức ám sát, thủ tiêu bất kỳ đối thủ nào chống đối lại anh em Diệm. Hoạt động của Kỳ bộ Bắc Việt không khác một tổ chức mật vụ, gây ra nhiều tội ác với quần chúng và lực lượng yêu nước.
Tóm lại, cơ cấu tổ chức của Đảng Cần lao được Nhu xây dựng dựa trên phương thức tổ chức của những người cộng sản. Trong tài liệu “mật” nói về “công cuộc khẩn thiết phát động một phong trào quần chúng” của Đảng Cần lao đã nêu: “khoa học đệ nhất về tổ chức phong trào quần chúng là tổ chức theo phương pháp Xô Viết của Cộng sản ở Nga”. [[13]]
“Các nước thiên cộng trên thế giới cũng như ở Việt Nam đều rập theo khuôn khổ ấy mà nắm giữ quần chúng một cách rất chặt chẽ.
Vậy phong trào chúng ta muốn hoàn thành công cuộc cách mạng xã hội toàn diện cũng phải có một tổ chức nắm giữ quần chúng chặt chẽ như tổ chức Xô Viết để có một hậu thuẫn vững vàng làm lợi khí tranh đấu thiết thực và thắng lợi…”[[14]]
Và Đảng Cần lao thực chất là một đảng cầm quyền, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ trong bộ máy chính quyền Diệm ở miền Nam Việt Nam. Cơ cấu tổ chức của nó là sự sao chép vụng về hình thức tổ chức đảng, tổ chức đoàn thể của những người cộng sản nhằm mục đích tấn công lại những người cộng sản.
3. Nguyên tắc hoạt động
Đảng Cần lao hoạt động dựa trên nguyên tắc bí mật, đảng quy của Đảng quy định rõ: “Uy lực của đảng dựa trên nguyên tắc bí mật… bộ phận chỉ đạo tối cao của các cấp bộ vẫn hoàn toàn bí mật. Như vậy, những cơ cấu không cần thiết phải trực tiếp với quần chúng như: Cấp bộ Liên tỉnh (hoặc Khu), Cấp bộ kỳ. Không nhất thiết phải thiết lập trụ sở công khai và cũng không ra mắt quần chúng. Riêng về Trung ương đảng Đảng bộ, một phòng Liên lạc Trung ương sẽ đặt tại Thủ đô Sài Gòn thay cho trụ sở Trung ương Đảng bộ”.
“Để đảm bảo nguyên tắc, mỗi đảng viên trong sinh hoạt phải kiểm điểm xem chính bản thân mình đã giữ được bí mật chưa, vô tình hay cố ý tiết lộ cơ sở Đảng sẽ bị kỷ luật ngay theo quy định”. [[15]]
Bên cạnh các nguyên tắc hoạt động trên, Đảng Cần lao còn quy định: “trong tình hình đặc biệt Trung ương có quyền chuyển toàn bộ tổ chức cơ sở thành cơ cấu tổ chức hoạt động để giành thế chủ động trong mọi hoàn cảnh. Như có thể thiết lập một ủy ban chỉ đạo chính trị, lập quân ủy hội hoặc một cơ quan quân pháp hay một bộ máy phòng gian và phản gián”.[[16]] Điều này cho thấy nếu cần bộ máy của Đảng sẽ chuyển thành một bộ máy hoạt động thay thế bộ máy chính quyền.
Với một nguyên tắc hoạt động như vậy, nó cũng đã bộc lột bản chất của một chế độ chuyên quyền, độc đoán, độc tài. Và nó hoàn toàn trái ngược với những từ “dân chủ” mà cả Mỹ và Diệm đang cố rêu rao ở miền Nam và Quốc tế.
[1] Tuyên ngôn Cần lao Nhân vị cách mạng Đảng, hồ sơ 29361, phông PTTg, TT II
[2] Tuyên ngôn Cần lao Nhân vị cách mạng Đảng, hồ sơ 29361, phông PTTg, TT II, tr. 63
[3] Đảng cương Cần lao Nhân vị cách mạng Đảng, hồ sơ 29361, phông PTTg, TT II
[4] Đảng cương Cần lao Nhân vị cách mạng Đảng, hồ sơ 29361, phông PTTg, TT II
[5] Tuyên ngôn Cần lao Nhân vị cách mạng Đảng, hồ sơ 29361, phông PTTg, TT II
[6] Tuyên ngôn Cần lao Nhân vị cách mạng Đảng, hồ sơ 29361, phông PTTg, TT II
[7] Tuyên ngôn Cần lao Nhân vị cách mạng Đảng, hồ sơ 29361, phông PTTg, TT II
[8] Đảng quy Cần lao Nhân vị cách mạng Đảng, 29361, phông PTTg, TT II
[9] Đảng quy Cần lao Nhân vị cách mạng Đảng, 29361, phông PTTg, TT II
[10] Đảng cương Cần lao Nhân vị cách mạng Đảng, hồ sơ 29361, phông PTTg, TT II
[11] Đảng quy Cần lao Nhân vị cách mạng Đảng, 29361, phông PTTg, TT II
[12] Đảng quy Cần lao Nhân vị cách mạng Đảng, 29361, phông PTTg, TT II
[13] Báo cáo (mật) về công cuộc khẩn thiết phát động một “Phong trào quần chúng”, hồ sơ 29257, phông PTTg, TT II
[14] Hồ sơ 29257, phông PTTg, TT II
[15] Đảng quy Cần lao Nhân vị cách mạng Đảng, 29361, phông PTTg, TT II
[16] Hồ sơ 29361, phông PTTg, TT II
TS. Nguyễn Xuân Hoài
Tin cùng chuyên mục:
Khó khăn và giải pháp khắc phục trong triển khai nhiệm vụ nộp lưu tài liệu lưu trữ số
Thực trạng triển khai công tác lưu trữ điện tử của Ủy ban Dân tộc
Văn học Sài Gòn 1954-1975 những chuyện bên lề
Sài Gòn 1698-1998 Kiến trúc quy hoạch