Danh nhân Việt Nam qua Di sản tư liệu – Mộc bản triều Nguyễn

Bên cạnh những tài liệu nhắc đến quốc hiệu Việt Nam, nhiều bộ sách sử của triều Nguyễn còn khắc ghi đầy đủ các danh nhân đất Việt từ thời Hùng Vương dựng nước cho đến đầu thế kỷ XX.

Cụ Nguyễn Trãi đã từng khẳng định: Nước Đại Việt có nền văn hiến lâu đời sánh ngang cùng triều đình phương Bắc“Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau, Song hào kiệt đời nào cũng có”. Xin được điểm qua một vài danh nhân tiêu biểu mà tên tuổi và sự nghiệp của họ rạng rỡ mãi với non sông qua tài liệu Mộc bản triều Nguyễn.

Trong sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, quyển 3, mặt khắc 2 và 3 có nói về thân thế và cuộc khởi nghĩa chống quân Nam Hán của Hai Bà Trưng vào năm 40 (sau công nguyên) giành lại độc lập cho dân tộc. Sử gia Lê Văn Hưu nhận xét: Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà, hô một tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam và Hợp Phố cùng 65 thành ở Lĩnh Nam đều hưởng ứng theo, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay, có thể thấy hình thế của đất nước Việt ta đủ dựng được nghiệp bá vương. Hai Bà Trưng đã ghi tên tuổi của mình vào lịch sử dân tộc một cách oanh liệt.

Dưới thời nhà Lý, một trong những vị tướng tài có công lớn trong hai cuộc kháng chiến chống quân Tống đó là Lý Thường Kiệt. Với trận đánh nổi tiếng trên sông Như Nguyệt, ông sử dụng một cách tài tình bài thơ thần “Nam Quốc Sơn Hà” làm xúc động lòng người, khích lệ tinh thần quân ta, tăng chí khí chiến đấu và quyết tâm diệt giặc và được xem là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của Việt Nam. Lý Thường Kiệt đã để lại cho lịch sử quân sự nước ta và thế giới một cách đánh vô cùng táo bạo đó là tấn công để phòng thủ. Ông là một trong số 14 vị anh hùng dân tộc kiệt xuất trong lịch sử Việt Nam.

Nhà Trần trị vì đất nước thay nhà Lý đã đưa lịch sử nước nhà thời phong kiến trở nên sáng chói với những chiến công hiển hách. Có thể nói lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất trong lịch sử thời phong kiến, một triều đại đã tạo được sự đồng tâm nhất trí tối cao, từ trên – dưới, già – trẻ, gái – trai, quân – dân… đồng lòng như một chống giặc ngoại xâm. Thật hiếm dòng họ cai trị nào có nhiều nhân tài nổi bật và nhiều chiến công như nhà Trần: Trần Quốc Tuấn, Trần Nhân Tông, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Trần Thủ Độ, Trần Khánh Dư, Trần Quốc Toản…

Nổi bật hơn cả là Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn (1228-1300), một vị tướng giỏi, ba lần chỉ huy đánh thắng quân Mông – Nguyên xâm lược, nổi tiếng với trận chiến trên sông Bạch Đằng. Ngài bỏ qua mối hiềm khích riêng để lo cho vận mệnh đất nước, một mực giữ tiết làm thần tử.

Theo Mộc bản sách “Khâm định Việt sử thông giám cương mục”, quyển 6, mặt khắc 40 chép: Năm 1257, vua Trần Thái Tông đã phong cho ông giữ chức Tiết chế Hữu tướng quân trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ lần thứ nhất. Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ hai, Hưng Đạo Đại Vương đã soạn Hịch tướng sỹ nhằm kêu gọi các tỳ tướng, binh sỹ ra sức học tập binh thư, rèn luyện võ nghệ chuẩn bị tinh thần chiến đấu trước quân xâm lược Nguyên Mông…Với tài đức và những chiến công vang dội, Hưng Đạo Đại Vương trở thành một trong 10 vị tướng tài ba của thế giới.

Trong Mộc bản sách “Ngự chế Việt sử tổng vịnh tập”, quyển 5, mặt khắc 4 – 5 khắc về Bảo nghĩa vương Trần Bình Trọng.

 Quoc hieu_003

Bản gốc và bản dập Mộc bản triều Nguyễn ghi chép về Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng

Năm đầu niên hiệu Trùng Hưng đời vua Trần Nhân Tông, quân nhà Nguyên sang xâm lấn nước ta. Lúc bấy giờ, Trần Quốc Tuấn (Hưng Đạo Vương) phái Trần Bình Trọng đi tiền phong chống giặc. Trần Bình Trọng nghe quân Nguyên đóng tại sông Tha Mạc (nay thuộc châu Màn Chùa, huyện Đông An, tỉnh Hưng Yên) vội vàng cầm quân đến đánh đuổi. Do sự chênh lệch quá lớn về quân số, Trần Bình Trọng bị bắt, nhưng trận đánh là một thắng lợi cực kỳ quan trọng về mặt chiến lược với cuộc kháng chiến khi kể từ đó, quân Nguyên hoàn toàn mất dấu bộ chỉ huy kháng chiến.

Sau khi bắt được Trần Bình Trọng, giặc tìm mọi cách để khai thác thông tin, nhưng ông kiên quyết không khuất phục, nhịn đói không ăn. Giặc gạn hỏi quốc sự, Trần Bình Trọng không trả lời. Giặc lại hỏi: Có muốn làm Vương đất Bắc không? Trần Bình Trọng khảng khái quát lên rằng: “ta thà làm quỷ nước Nam chứ không thèm làm Vương đất Bắc”. Không khuất phục được, quân Nguyên buộc phải giết ông.

Có thể nói mỗi câu chuyện, mỗi tấm gương về con người “Đông A” đều xứng đáng là bài học sâu sắc cho đời sau noi theo.

Mộc bản sách “Ngự chế Việt sử tổng vịnh tập”, quyển 4, mặt khắc 10 ghi chép về Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi (1380 – 1442).

 Quoc hieu_004

Mộc bản và bản dập ghi chép về Danh nhân Văn hóa thế giới Nguyễn Trãi

Nguyễn Trãi là anh hùng dân tộc, là nhà tư tưởng, nhà thơ, nhà văn hóa lớn của nước ta. Sau cuộc kháng chiến chống quân Minh giành thắng lợi năm 1428, Nguyễn Trãi vâng mệnh Lê Lợi soạn “Bình Ngô Đại cáo” để bố cáo trong toàn thiên hạ về nỗi thống khổ của nhân dân dưới ách xâm lược của kẻ thù; phản ánh lịch sử gian nan của cuộc khởi nghĩa và chiến thắng hết sức vẻ vang của dân tộc. Lịch sử coi đây là bản tuyên ngôn độc lập lần 2 của dân tộc Việt Nam. Tâm hồn và sự nghiệp của ông mãi mãi là vì sao sáng như Lê Thánh Tông truy tặng “Ức Trai tâm thượng quang Khuê Tảo”.

Trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, có lẽ thời kỳ nhà Mạc là ít được nhắc tới. Nhưng trong số các bậc danh nhân đất Việt thời Mạc thì Trình Quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm lại được nhiều người biết đến. Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) là người rất tinh thông số học, là một nhà tiên tri lỗi lạc. Sau khi thôi làm quan về với ruộng vườn, ông làm thầy dạy học, học trò của ông có nhiều người thành đạt: Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Nguyễn Dự, Trương Cử đều do trường ông dạy học mà ra. Các môn đồ của ông gọi là Tuyết Giang Phu tử, ông có làm ra tập thơ Bạch Vân am, được đời sau lưu truyền và sử dụng.

Nhìn về lịch sử dân tộc, chúng ta thấy trong mỗi thời kỳ biến động lại xuất hiện các nhân tài đứng lên gánh vác việc giang sơn. Trong cuộc dựng cứu nước và giữ nước, các thế hệ người Việt đã viết nên những trang sử hào hùng, những bài ca về một đất nước nhỏ bé nhưng kiên cường bất khuất. Cụ Phan Huy Chú từng nói: “Nước Việt Nam ta là nơi phong hoá mở mang, khí tinh hoa tụ họp. đây là nơi kế nghiệp của các đấng minh quân, nơi anh hùng hào kiệt đời nào cũng có. Công lớn của các bậc tiên hiền, hoặc được khắc ghi ở đỉnh, hoặc toả sáng nơi lưỡi búa và cờ mao, hoặc rạng ngời trong văn chương sách vở, hoặc đọng lại trong khí tiết anh tú…tất cả đều là những người cần được sử sách ghi chép lại.”

Tìm về quốc hiệu và danh nhân qua tài liệu Mộc bản, chúng ta có quyền tự hào về những trang sử vẻ vang của dân tộc. Thế hệ trẻ chúng ta hôm nay phải làm theo câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh “phải luôn ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng”. Thông  qua từng nét khắc trên tài liệu Mộc bản triều Nguyễn được thế giới công nhận là Di sản tư liệu cuả nhân loại đã khẳng định nước ta không chỉ có những anh hùng trong trận mạc mà còn rất nhiều những nhà văn hoá lỗi lạc được cả thế giới ghi danh. Từ đó, có thể khẳng định giá trị lịch sử vô giá nằm trong khối Mộc bản triều Nguyễn – Di sản tư liệu thế giới. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định ngay từ năm 1946 “Tài liệu lưu trữ có giá trị đặc biệt trong công cuộc kiến thiết quốc gia”, khẳng định giá trị của tài liệu lưu trữ luôn góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc hôm nay./.

Trần Minh – Mai Duyên (Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV)

Nguồn: archives.gov.vn

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *