TS.CVCC. Phan Đình Nham
- Phông Thống Đốc Nam Kỳ trong hệ thống Lưu trữ Việt Nam
Hệ thống Phông lưu trữ quốc gia Việt Nam hiện nay bao gồm toàn bộ tài liệu của nước Việt Nam, không phụ thuộc vào thời gian hình thành, nơi bảo quản, chế độ chính trị – xã hội, kỹ thuật ghi tin và vật mang tin; và bao gồm Phông lưu trữ Đảng Cộng sản Việt Nam và Phông lưu trữ Nhà nước Việt Nam. Nguồn tài liệu đó gồm có chữ viết tiền Hán, chữ Hán, chữ Nôm, chữ Pháp, chữ Anh, chữ quốc ngữ và chữ của 54 dân tộc Việt Nam; và một số chữ viết liên quan khác. Từ khi xuất hiện Nhà nước, xã hội phân chia giai cấp, văn tự xuất hiện, thì tài liệu lưu trữ cũng đồng thời hình thành. Nguồn tài liệu đó, như Chủ tịch Hồ đã ghi trong Thông Đạt: “Tài liệu có giá trị đặc biệt về phương diện kiến thiết quốc gia”[1]. Hai Pháp lênh về lưu trữ đều ghi: “Tài liệu lưu trữ quốc gia là di sản của dân tộc, có giá trị đặc biệt đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quôc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Luật lưu trữ đã ghi: “Tài liệu lưu trữ là tài liệu có giá trị phục vụ hoạt động thực tiễn, nghiên cứu khoa học, lịch sử được lựa chọn để lưu trữ. Tài liệu lưu trữ bao gồm bản gốc, bản chính; trong trường hợp không còn bản gốc, bản chính thì được thay thế bằng bản sao hợp pháp”[2].
Hệ thống Phông lưu trữ hiện nay bao gồm: 4 Trung tâm lưu trữ quốc gia (1,2,3,4 ), 3 trung tâm lưu trữ chuyên ngành (Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, Bộ Công an), 63 trung tâm lưu trữ lịch sử Tỉnh và Thành phố trực thuộc Trung ương, lưu trữ các Doanh nghiệp, lưu trữ các tổ chức đoàn thể xã hội v.v… Do những nguyên nhân chủ quan và khách quan của lịch sử, nguồn tài liệu lưu trữ Việt Nam còn lại rất ít ỏi so với bề dày lịch sử dân tộc. Dù không còn đầy đủ trọn vẹn nhưng số tài liệu hiện có cũng là di sản đặc biệt quý giá của quốc gia Việt Nam.
Mộc Bản Triều Nguyễn đã được UNESCO vinh danh là di sản tư liệu thưộc chương trình ký ức của nhân loại (31/7/2009). sau đó Di sản Mộc Bản chùa Vĩnh Nghiêm Bắc Giang, Di sản 82 Văn bia Tiến sĩ Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội cũng được vinh danh giống như thế. Ngoài 3 Di sản tư liệu này, Việt Nam đang tiến hành lập Hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận di sản tư liệu Châu Bản Triều Nguyễn và một số di sản tư liệu khác. Chúng ta tin rằng sẽ còn nhiều Phông lưu trữ tại Việt Nam sẽ được nhận danh hiệu cao quý ấy, trong đó có Phông Thống Đốc Nam kỳ.
- Giá trị lịch sử của Phông Thống Đốc Nam Kỳ
Bộ Hải quân và Thuộc địa Pháp cử Thiếu tướng Tổng chỉ huy lực lượng Hải quân Pháp vùng Biển Đông, Phó Đô Đốc Rigault de Genouilly giữ chức Tổng chỉ huy lực lượng viễn chinh tại Việt Nam, bắt đầu nhiệm kỳ đầu tiên ớ Nam Kỳ (1-9-1858 )
Thực dân Pháp được sự hỗ trợ của quân Tây Ban Nha ngày 24-02-1859 tấn công và chiếm Thành phố Sài Gòn. Năm 1861, Pháp đặt Thống Đốc đầu tiên tại Gia Định thành. 17 năm cai trị Nam kỳ theo chế độ võ quan với 24 đời sĩ quan, đến năm 1879 thay bằng chức Văn quan đầu tiên là Le Myre de Vilers.
Ngày 9-11-1864, thống Đốc Nam Kỳ quyết định thành lập Nha Nội chính (Direction de L’Intérieur)[3] để giải quyết tất cả các công việc liên quan đến thuộc địa.
Ngày 17-10-1887, Liên Bang Đông Dương được thành lập, trực thuộc Bộ Hải quân và thuộc địa Pháp. Tổng thống Pháp ra Sắc lệnh (29-10-1887) ấn định quyền hạn Thống Đốc Nam Kỳ (Lieutenant- Gouverneur de la Cochinchine), đai diện cho Toàn quyền Đông Dương (Gouverneur Général de L’Indochine ) ở Nam Kỳ.
Tổng thống Pháp ban hành Sắc lệnh (20-10-1911)[4] giao quyền hạn cho Thống Đốc Nam Kỳ: quyền tự trị về hành chính, tuân theo chỉ đạo trực tiếp của Toàn quyền Đông Dương, được quản trị toàn bộ thuộc địa Nam Kỳ, quản lý toàn bộ nhân viên đang phục vụ tại Nam Kỳ, giữ gìn an ninh trật tự công cộng và có thể trưng dụng quân đội. Tất cả nhân viên phục vụ tại Nam Kỳ đều thuộc quyền của Thống Đốc Nam Kỳ và được phân bổ tùy theo nhu cầu công việc.
Chức năng nhiệm vụ và tổ chức của Văn phòng và các phòng (Cabinet et des Bureuax) thuộc Phủ Thống Đốc Nam kỳ được quy định trong các Nghị định của Thống Đốc Nam kỳ: Nghị định ngày 1-1-1914; Nghị định ngày 17-3-1914; Nghị định ngày 9-9-1927; Nghị định ngày 12-5-1941; Nghị định ngày 30-5-1945 v.v…
Phông Thống Đốc Nam kỳ với giới hạn thời gian là từ 1858 (Phó Đô Đốc Rigault de Genouilly giữ nhiệm kỳ Thống đốc đầu tiên ở Nam Kỳ, 1-9-1858 ) đến 1945, kéo dài 87 năm. Từ khi Chủ tich Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình đến nay đã 69 năm. Phông tài liệu lưu trữ Thống Đốc Nam kỳ bằng chữ Pháp là Phông còn lại hoàn chỉnh và tương đối đầy đủ nhất. Xét về thời gian hình thành và nguồn tài liệu bằng chữ Pháp thì đây là phông có giá trị lịch sử với đầy đủ các tiêu chí của nó. Đây là bằng chứng, chứng cứ, dấu ấn lịch sử hùng hồng nhất, chính xác nhất trong quan hệ giữa nước Công hòa Pháp và nước Việt Nam. Nếu kể đến hôm nay là đã ghi dấu ấn trong quan hệ giữa hai quốc gia Pháp , Việt Nam là 156 năm. Tài liệu lưu trữ là sản phẩm trung thực, chính xác, là bằng chứng tin cậy, hùng hồn về các mối quan hệ trong thời kỳ đã qua giữa 2 quốc gia. Trong gần 2 thế kỷ, lịch sử (mà chủ yếu là qua tài liệu lưu trữ tại Phông Thống Đốc Nam Ky) đã để lại cho nước Cộng hòa Pháp và Việt Nam rất nhiều mối quan hệ như: kinh tế, chính trị, ngoại giao, khoa học kỹ thuật, giáo dục, thương mại, giao thông vận tải, du lich, v.v… Lịch sử đã được phản ánh trung thực trong chính sách bóc lột, vơ vét của cải tài nguyên ở nước thuộc địa; Những cuộc khởi nghĩa, đấu tranh chống lai ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, liên tiếp nổ ra khắp Nam Kỳ lục tỉnh, phản ánh và ghi dấu tinh thần chống giặc ngoại xâm anh dũng của nhân dân Việt Nam. Những cơ sở vật chất thực dân Pháp đã để lại trên giải đất Nam kỳ nói riêng và Việt Nam nói chung như: Các đô thị, thành phồ lớn như Sài Gòn, Cần Thơ, Sa Đéc, Long Xuyên; các nhà máy, công xưởng, hệ thống giao thông, danh lam thắng cảnh nghỉ mát như Đà Lạt, Bà Rịa Vũng Tàu, Côn Đảo, Phú Quốc, v.v…
Phông Thống Đốc Nam Kỳ: Số lượng tài liệu: 2435,5 m; Thời gian tài liệu: 1859-1945, Loại hình tài liệu: Tài liệu hành chính (giấy, bản đồ, ảnh); Tình trạng vật lý: phần lớn tài liệu bị ố giòn, mục, rách, chữ mờ; Công cụ tra cứu: Mục lục hồ sơ, thẻ[5]. Sự hiện diện của Phông Thống Đốc Nam Kỳ là một bằng chứng hùng hồn về giá trị lich sử, là di sản tư liệu của nhân loại.
- Giá trị khoa học của Phông Thống Đốc Nam Kỳ
Lưu trữ, lưu trữ học, tài liệu lưu trữ, công tác lưu trữ đã trở thành một ngành khoa học, một công cụ và phương tiện hiệu quả trong công tác quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, tài chính, vật tư, v.v… và quản lý con người trong xã hội từ cổ xưa cho đến tận thời khoa học hiện đại hôm nay.
Nước Cộng hòa Pháp là quốc gia phát triển vào loại sớm công tác lưu trữ và khoa học lưu trữ. Năm 1794 ở Pháp mới thực sự có cuộc cách mạng trong công tác lưu trữ, đó là: Ngày 25/6/1794, Nhà nước cộng hoà Pháp ban hành Đạo luật về tập trung công tác lưu trữ 1794 với nội dung chính là:
+ Quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của Viện lưu trữ quốc gia và thành phần tài liệu cần được giao nộp vào Viện lưu trữ này.
+ Thành lập một mạng lưới các Viện lưu trữ ở các tỉnh, thành phố của nước Pháp để làm nhiệm vụ tập trung quản lý tài liệu lưu trữ ở cấp tỉnh.
+ Thành lập Hội đồng công tác thuộc Viện lưu trữ quốc gia để giúp Viện lưu trữ quốc gia theo dõi, chỉ đạo công tác lưu trữ.
+ Quy định việc phân loại tài liệu để đưa vào bảo quản trong các Viện lưu trữ như sau:
Loại tài liệu lịch sử được bảo quản tại các Thư viện.
Ở Pháp, Đại học lưu trữ cổ tự học đã được từ năm 1821. Điều kiện vào học là thanh niên tốt nghiệp phổ thông, qua một kỳ thi tuyển, mỗi năm chọn 10 -20 người, thời gian học là 3 năm.
Các môn học gồm có: Năm thứ nhất: Văn học lãng mạn, chữ cổ bằng tiếng latinh, tiếng Pháp, thư muc học.Năm thứ hai: Học ngoại giao, lịch sử các cơ quan nhà nước, các môn học về công tác lưu trữ và Sử liệu học.Năm thứ ba: Học Lịch sử pháp quyền, Khảo cổ học, Sử liệu về lịch sử trung cổ.
Trung tâm lưu trữ Pháp bảo quản toàn bộ tài liệu của cơ quan hành chính trung ương với tổng số 220. 000 m giá. Pháp lưu giữ và bảo quản tài liệu lưu trữ của các nước thuộc địa; Kho lưu trữ Hải Ngoại: Thành lập 1966, bảo quản tài liệu của 28 nước thuộc địa, gồm 41,9 km gía. Năm 1996: 9.860 m giá được chụp thu nhỏ (chụp Microfim). Có 5.000 m kệ tài liệu Pháp mang từ Việt Nam về Pháp.
Ngày 26/4/1909, Thống Đốc Nam Kỳ E. Outrey ban hành Nghị định thành lập Kho lưu trữ Nam Kỳ[6]. Tài liệu kho Nam kỳ bằng chữ Pháp, là sản phẩm do chính quyền Pháp sản sinh ra tại vùng đất Nam kỳ.
Kho lưu trữ Nam Kỳ giữ toàn bộ các giấy tờ tạo nên và chi phối sự tồn tại của thuộc địa tại Nam Kỳ
Nhân viên làm việc trong kho lưu trữ Nam Kỳ có 2 chức danh: Lưu trữ viên và Thủ thư,
Tháng 6/1917, Theo đề nghị của viện Hàn Lâm Văn khắc và Văn học Pháp, chuyên gia lưu trữ và cổ tự học Paul Boudet đã tới Đông Dương để tiến hành một cuộc điều tra chung 17 tỉnh về tình hình hiện tại của tài liệu hành chính trong các xứ của Liên bang Đông Dương; đề xuất những biện pháp để chấn chỉnh công tác lưu trữ tại Việt Nam và Đông Dương.
Ngày 29-11-1917, Toàn quyền Đông Dương Albert Saraut đã ký Nghị định cho thành lập tại Phủ Toàn quyền Đông Dương chức Giám đốc lưu trữ và Thư viện, Ngày 26-12-1918, Toàn quyền Đông Dương ký Nghị định thành lập 5 kho lưu trữ trên toàn Đông Dương (Hà Nội, Huế, Sài Gòn, P’Nôm Pênh, Viêng Chăn).
Ngày 26-4-1909, Thống Đốc Nam Kỳ ban hành Nghị định xác định các hoạt động bên trong của cơ quan lưu trữ Nam Kỳ, quy định về tổ chức sử dụng tài liệu về lịch sử thuộc địa.
Khung phân loại Paul Boudet là thành tựu khoa học của lưu trữ nước Pháp tại Việt Nam và Đông Dương. Khung phân loại giúp cho công tác thu thập bổ sung, chỉnh lý khoa học kỹ thuật, thống kê, bảo quản, xác định giá trị và tổ chức sử dụng có hiệu quả tài liệu lưu trữ cơ quan và lưu trữ lịch sử. Khung phân loại này đã được ngành lưu trữ Việt Nam sử dụng để phân loại hệ thống hóa các Phông bằng chữ Pháp như: Phông Toàn quyền Đông Dương; Phông Khâm sứ Trung kỳ; Phông Tòa sứ các tỉnh; Phông Thống Đốc Nam Kỳ và các Phông bằng chữ Pháp khác. Cấu tạo Khung phân loại như sau:
- Chánh Thư (Từ A.0 đến A. 6)
- Thư tín tổng quát (Từ B.0 đến B.7)
- Nhân viên – công vụ (Từ C.O đến C.6)
- Hành chánh tổng quát (Từ D.0 đến D.8)
- Hành chánh tỉnh (Từ E.0 đến E.8)
- Chính trị (Từ F.0 đến F.7)
- Tư Pháp (Từ G.0 đến G.8)
- Công chánh (Từ H.0 đến H.8)
- Hầm mỏ (Khoáng vụ, khoáng nghiệp) (Từ I.1 đến I.5)
- Hỏa xa, vận tải (Từ J.0 đến J.4)
- Bưu điện, Vô tuyến điện và Điện thoại (Từ k.0 đến k.9)
- Thương mại, Kỹ nghệ – Du lịch (kinh tế ) (Từ L.0 đến L.9)
- Lao động – Điền thổ (Từ M.0 đến M.9)
- Nông – Lâm – Mục (Từ N.0 đến N.9)
- Hàng hải – Thủy vận (Từ O.0 đến O.9)
- Hải quân (Từ P.0 đến P.8)
- Quân sự – Lục quân – Không quân (Quốc phòng) (Từ Q.0 đến Q.9)
- Học chính – khoa học và kỹ thuật (giáo dục) (Từ R.0 đến R.9)
- Y tế , cứu tế (Từ S.0 đến S.9)
- Tài chánh (Từ T.0 đến T,9)
- Quan thuế – Quan quản – Thuế gián thu (Thương chánh) (Từ U.0 đến U.9)
- Văn khố – Thư viện (Từ V.0 đến V.9)
- Tạp vụ (Từ X.0 đến X.2)
- Giấy tờ của tư nhân
- Sao lục sử liệu Việt Nam, Cao Miên và Ai Lao
Phông Thống Đốc Nam kỳ đã được tổ chức, phân loại, hệ thống hóa, thống kê, bảo quan và tổ chức khai thác, nghiên cứu sử dụng cho tất cá các đối tượng nghiên cứu một các nhanh chóng, hiệu quả. Có thể khẳng định thực tế hiển nhiên đó của khoa học lưu trữ nước Cộng hòa Pháp, phản ánh rõ nét trong Phông Thống Đốc Nam Kỳ. Nguồn tài liệu lưu trữ này đang được từng bước ứng dụng Công nghệ thông tin và số hóa tài liệu.
- Giá trị thực tiễn của Phông Thống Đốc Nam Kỳ
Phông Thống Đốc Nam kỳ là một trong hàng trăm Phông lưu trữ đang bảo quản tại Trung tâm lưu trữ quốc gia II. Trung tâm II có các Phông bằng chữ Pháp như: Khâm sứ trung kỳ – Résident Supérieur en Ananam (không còn đầy đủ vì năm 1950 Pháp đã mang về Lưu trữ tại Bộ thuộc địa và Hải ngoại); Phông Hội đồng Tư mật Nam Kỳ; Phông Hội đồng thuộc địa Nam Kỳ; Phông Công ty Bia và Nước đá Đông Dương.
Giá trị thực tiễn của phông Thống Đốc Nam Kỳ thể hiện thông qua nguồn tài liệu đang lưu giữ đã phục vụ thiết thực, kịp thời cho công tác nghiên cứu của các nhà nghiên cứu chuyên ngành và toàn xã hội.
- Về Văn bản pháp quy: các tập Nghị định, Quyết định, thông tư của Toàn quyền Đông Dương và Thống Đốc Nam Kỳ.
- Về công văn trao đổi: Tập lưu công văn trao đổi, điện tín, công văn mật với cấp trên, ngang cấp và cấp dưới trong điều hành quản lý nhà nước.
- Về nhân sự: Quy chế nhân viên và lương bỗng; Hồ sơ cá nhân công chức người Âu; Hồ sơ cá nhân công chức người bản xứ.
- Về tổ chức chính quyền Trung ương: Tài liệu về việc thành lập các tổ chức Đông Dương, Hội đồng Tư mật Nam Kỳ, Hội đồng thuộc địa Nam Kỳ, Các đơn vị tổ chức thuộc Phủ Thống Đốc Nam Kỳ, Tổ chức hành chính cấp tỉnh, Thành phố, Hội đồng tố tụng hành chánh. Đơn từ tố cáo, kiện tụng, Cho thành lập các Hội, Hoạt động của Hội các nhà báo, tổ chức quân số vệ binh.
- Tổ chức chính quyền địa phương : Tiểu dẫn địa phương chí các tỉnh Nam Kỳ, Báo cáo tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của các tỉnh, báo cáo thống kê dân số, nông nghiệp các tỉnh, Tổ chức lại các làng xã Nam Kỳ, Bầu cử Hội đồng thành phố Sài Gòn.
- Về chính trị : Báo cáo chính trị hàng tháng, quý, năm của các tỉnh Nam Kỳ và Tp Sài Gòn, Quan hệ Pháp – Nhật, Tài liệu về biên giới giữa Nam Kỳ và Campuchia, Thống kê các vụ trộm cắp, cướp bóc ở các tỉnh Nam Kỳ, Tài liệu về cuộc đình công của công nhân Hãng Xe điện, Biểu tình tổ chức ở Chợ Mới ( Long Xuyên ), Báo cáo của các tỉnh về biểu tình của Cộng sản nhân ngày 1/5/1930, Tài liệu về hoạt động của Đông Dương Cộng sản Đảng, Tổ chức kỷ niệm ngày Xô Viết Nghệ Tĩnh, Tổ chức kỷ niệm ngày chiến thắng của Cách mạng Tháng Mười Nga 7/11/1940, Tài liệu về việc bắt Hà Huy Tập, Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Hồ Văn Long (thầy giáo Long), Tổ chức ngày giỗ Phan Châu Trinh, Tài liệu về hoạt động của Cộng sản ở Bà Rịa, Châu Đốc, Long Xuyên, Mỹ Tho, Trà Vinh, Vĩnh Long, Vũng Tàu, Sa Đéc. Tìm thấy truyền đơn ở Tân Phú, Chợ Mới ( Long Xuyên ), Tân Phú Trung ( Gia Định ), Bạc Liêu, Bến Tre, Truyền đơn kỷ niệm Công Xã Paris ở Long Xuyên, Tìm thấy tờ « Lao Khổ » ở Châu Đốc, Báo cáo tình hình an ninh công cộng ở các tỉnh Nam Kỳ, Trục xuất người Hoa, người nước ngoài, người bản xứ ra khỏi Nam Kỳ, Bầu các Bang trưởng người Hoa ở Nam Kỳ, Tài liệu về tôn giáo, Tài liệu về hoạt động của đạo Cao Đài ở Tây Ninh và ở các tỉnh Nam Kỳ, Báo cáo của tỉnh Tây Ninh về hoạt động của Phạm Công Tắc, Tài liệu vể Hội kín Thiên Địa Hội, Thiên Địa Nhơn Phật, Điều lệ, tổ chức, hoạt động của Hội Tin Lành, Thiên chúa giáo, Tuyên truyền thuyết Thần trí ở Sài Gòn và các tỉnh Nam Kỳ.
- Về Tư pháp: Cải tổ tư pháp ở Đông Dương, Hoạt động của các Tòa án bản xứ, Quy chế tổ chức các đề lao địa phương, Phóng thích tội nhân, ân xá tội phạm và các hồ sơ xin đặc xá.
- Về Công chánh: Tổ chức các sở Công chánh ở Đông Dương, Hồ sơ nguyên tắc chuyên chở đường bộ, đường sông và đường biển, Hoạt động của Thủy nông và Hàng Hải Nam Đông Dương, Xây dựng, tu sữa các công sở, trường học, bệnh viện, chùa chiền.
I .Về Mỏ: Hồ sơ nguyên tắc về chế độ hầm mỏ Đông Dương, Tài liệu về Hội nghiên cứu Nước sưối Vĩnh Hảo.
- Về Đường sắt – Vận tải đường bộ và đường hàng không : Báo cáo của Tổng Thanh tra Công chánh Đông Dương về việc khai thác các hệ thống đường sắt ở Đông Dương, Hoạt động của đường xe lứa Sài Gòn – Mỹ Tho, Sài Gòn – Đà Lạt, Khế ước ký vơi Công ty xe điện Đông Dương.
- Về Bưu điện: Tổ chức sở Bưu điện và Điện thoại, Hệ thống Điện thoại Nam Kỳ.
- Về Thương Mại – Kỹ nghệ – Du lịch: Quy định về thương mại Á châu, Tổ chức lại các phòng thương mại ở Đông Dương, Hoạt động của ngân hàng Đông Dương, Pháp –Hoa ngân hàng, Hồ sơ triển lãm thuộc địa ở Paris, Marseille, Calcuta.
- Về khai thác thuộc địa – kỹ nghệ – du lich: Tổ chức Nha Thanh tra lao động, Chế độ Điền Thổ ở Nam Kỳ, Cải tổ Sở địa chính, các phòng Điền thổ, Trưng dụng, đặc nhượng đất đai công sản ở Nam Kỳ. Quy định về mướn công điền.
- Về Nông – Lâm nghiệp: Chương trình hoạt động, báo cáo hàng tháng của Sở Canh nông, Trường Canh nông Bến Cát, Trạm nuôi tằm Tân Châu, Thành lập phòng Canh nông Nam Kỳ, Hoạt động của Trường Nông nghiệp Cần Thơ, Trường Nông súc Vĩnh Châu (Bạc Liêu), Trường Canh nông súc Bình Thủy (Long Xuyên), Trường Canh nông súc Sóc Trăng, Trà Vinh, Tín dụng nông nghiệp ở Nam Kỳ, Tổ chức Sở Thú y, Thành lập các Trại thủy lâm, các đồn thủy lâm.
- Về giao thông đường thủy: Ban hành các Luật, Sắc lệnh, Nghị định về hàng hải, Quy định về cảnh sát đường sông, biển ở Đông Dương, Mở rộng thương cảng Sài Gòn, Ban hành Luật về nghề đánh bắt cá.
- Về Hải quân: Hoạt động của Hải quân Pháp tại Đông Dương.
- Về Quân sự: Báo cáo hàng tháng của các đồn Hiến binh ở Sài Gòn, Tổ chức phòng thủ Đông Dương, Tàu chiến Mỹ ghé bến Đông Dương, Ngân khoản của quân đội, Bệnh viện quân sự Sái Gòn, Hoạt động của các Tòa án binh, Tuyển mộ lính ở Nam Kỳ,
- Về Giáo dục – Khoa học va Nghệ thuật: Tổ chức học chính và Y tế Đông Dương, Cải tổ nền giáo dục ở Đông Dương, Các kỳ thi kiểm tra và thi cấp bằng, Kỳ thi ngôn ngữ Đông Dương.
- Về các Sở Y tế và Cứu tế xã hội: Tổ chức Sơ Y tế ở Đông Dương, Đấu thầu, cung cấp thiết bị Y tế cho các bệnh viện, Tình hình bệnh dịch, Hoạt động của các Trường Y tá, Trại cô nhi Sài Gòn, Tiệm Cầm đồ.
- Về Tài chánh: Các Nghị định, Thông tư về tài chánh, ngân hàng, ngân khố, thuế vụ, Thuế ghe thuyền, thuế xe cộ, thuế trâu bò, Chế độ lương bỗng, phụ cấp công chức người Âu, người Ấn Độ, người Đông Dương.
Kiểm tra tài sản của các cơ quan, bệnh viện, trường học, Thuế trước bạ.
- Về Thương chánh – Thuế gián thu: Thuế rượu, thuế muối, thuốc lá.
- Về Lưu trữ và Thư viện: Tổ chức cơ quan Văn khố và Thư viện Đông Dương và Nam Kỳ, Thu thập chỉnh lý, khai thác, sử dụng tài liệu lưu trữ của các cơ quan và các tỉnh Nam Kỳ, Hoạt động thư viện lưu động ở Nam Kỳ, Nạp bản, mua ba, ấn phẩm, Đóng sách báo.
Tài liệu lưu trữ rất quan trọng còn lưu tại Phông Thống Đốc Nam Kỳ là: Sổ đăng ký tàu của Thương cảng Sài Gòn; Tàu Amiral La Touche Tréville cập bến Sài Gòn ngày 3/6/1911 và rời cảng ngày 5/6/1911 (xem hình ảnh minh họa trong bài viết này). Con tàu đã chở anh Văn Ba ( Nguyễn Tất Thành, Bác Hồ) làm nhiệm vụ phụ bếp. Hồ sơ về cập bến và rời bến của con tàu này đang bảo quản tại Phông Thống Đốc Nam Kỳ, mang ký hiệu IA. 5/6. Và 62 năm sau, tức vào năm 1973, đoàn do đồng chí Hồng Hà, nguyên Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, tham gia Hội nghị Paris, đã tìm thấy tại Lưu trữ cảng Dunkerque Bắc nước Pháp sổ phát lương cho công nhân làm việc trên tàu Amiral La Touche Tréville, trong đó có tên VĂN BA, lương 45 Fr. Con tàu này do lâu đời và quá cổ nên đã bán sắt vụ vào năm 1925. Nhưng toàn bộ hồ sơ về con tàu vẫn lưu trữ tại Cảng Dunkerque. Nhờ hồ sơ đó Đoàn công tác Việt Nam mới phát hiện ra Văn Ba, 45 Fr. Các văn bản lưu trữ này mang giá trị lịch sử, khoa học và thực tiễn vô giá vì nó liên quan đến 30 năm đi khắp các châu lục để tìm đường cứu nước cứu dân của Nguyễn Tất Thành (Văn Ba, Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh) kính yêu của chúng ta.
- Tài liệu Phông Thống Đốc Nam Kỳ – tiềm năng di sản tư liệu.
Tài liệu Phông Thống Đốc Nam Kỳ mang đầy đủ giá trị của nó theo quan điểm lưu trữ học: Giá trị lịch sử, giá trị khoa học, giá trị thực tiễn. Với 2.435.5 mét giá (kệ) còn lưu giữ cho đến ngày nay, phản ánh toàn diện các mặt hoạt động của Thống Đốc Nam kỳ từ 1858 đến 1945, là một Phông tài liệu lưu trữ đầy đủ, hoàn chỉnh. Khung phân loại tài liệu lưu trữ Phông Thống Đốc Nam Kỳ là một khung phân loại phù hợp nhất cho việc thu thập, bổ sung, thống kê, bảo quản, xác định giá trị và tổ chức sử dụng hiệu quả tài liệu lưu trữ. Nguồn tài liệu lưu trữ của Phông Thống Đốc Nam Kỳ rất đa dạng, phong phú, là bằng chứng, chứng cứ chính xác và tin cậy. Từ năm 1945 và đặc biệt là từ năm 1975 đến nay tài liệu luu trữ Phông Thống Đốc Nam Kỷ đã phục vụ tốt cho tất cả các nhà nghiên cứu, nhà quản lý, các cơ quan Đảng và Nhà nước, mọi đối tượng trong và ngoài nước. Hầu hết các Ban nghiên cứu lịch sử Nhà nước và lịch sử Đảng của các tỉnh vùng Nam bộ đều đã đến nghiên cứu khai thác nguồn tài liệu lưu trữ tại Phông Thống Đốc Nam Kỳ. Nhiều nghà nghiên cứu nước ngoài cũng đã thường xuyên tiếp cận nguồn tài liệu lưu trữ này. Nhà máy thuỷ điện Trị An, Đa Nhim đã sử dụng tài liệu lưu trữ tại Phông Thống Đốc Nam Kỳ phục vụ cho công tác khảo sát, thiết kế, xây dựng mới. Nguồn tài liệu này đang từng bước ứng dụng Công nghệ thông tin, số hóa tài liệu để vừa bảo quản an toàn, chống lão hóa vừa phục vụ nghiên cứu sử dụng có tính khả thi hơn vào thực tiễn. Phông Thống Đốc Nam Kỳ bằng chữ Pháp, do chính quyền Pháp sản sinh ra trên mảnh đất Việt Nam của chúng ta, đó là di sản của Việt Nam và của nhân loại. Về ngoại giao, Đảng ta chủ trương theo đa phương hóa đa diện hóa, xếp trang sử cũ, làm bạn với tất cả các quốc gia trên thế giới để các bên đều có lợi, kể cá Anh, Pháp, Mỹ, Nhật v.v…Trong thời kỳ hội nhập hiện nay, tài liệu Phông Thống Đốc Nam Kỳ càng có vai trò ý nghĩa và tầm quan trọng to lớn trong việc xúc tiến quá trình tiếp xúc, giao thoa trong khu vực Đông Nam Á, khu vực Đông – Tây. Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu tượng trong sáng nhất trong quan hệ giữa Việt Nam và nước Cộng hòa Pháp. Hai tài liệu lưu trữ (sổ đăng ký Tàu Amiralle Latouche Tréville, và Văn Ba 45 Fr) chứng minh hùng hồn cho điều đó. Chính tại nước Pháp, nguyễn Ái Quốc đã viết bản án chế độ thực dân Pháp (Le Procès de la Colonisation Francaise); ra báo người cùng khổ (Le Paria); Là Đảng viên Đảng cộng sản Pháp, tham gia sáng lập ra Đảng công sản Pháp (1920). Học tập Người chúng ta duy trì quan hệ với nước Pháp cho đến hôm nay. Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ quốc gia II, là sản phẩm của nước Pháp, đồng thời nó cũng là di sản quý giá về mặt tư liệu của Việt Nam và Thế giới. Khoa học lưu trữ nước Pháp vào loại tiên tiến nhất của thế giới. Trung tâm lưu trữ quốc gia II đã phục vụ sinh viên cao học và nghiên cứu sinh (hơn 200) bảo vệ thành công luận văn thạc sỹ, tiến sỹ.
Xét về di sản tư liệu, tài liệu Phông Thống Đốc Nam Kỷ có đủ tiêu chí để lập hồ sơ đề nghị UNESCO vinh danh là Di sản tư liệu Thế giới.
Trong thư gửi đồng bào Nam Bộ ghi ngày 26/9/1945, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã viết: «Tôi chỉ muốn dặn đồng bào Nam Bộ một lời: đối với những người Pháp bị bắt trong lúc chiến tranh, ta phải canh phòng cho cẩn thận, phải làm cho thế giới, trước hết cho dân Pháp, biết rằng: chúng ta là quang minh chính đại. Chúng ta chỉ đòi quyền độc lập tự do, chứ chúng ta không vì tư thù tư oán, làm cho thế giới biết rằng chúng ta là một dân tộc văn minh, văn minh hơn bọn đi giết người cướp nước[7]
« Chúng ta không hề thù ghét dân tộc Pháp, chúng ta hiểu rằng : đã từng chiến đấu với Đức, đã từng giữ vững tinh thần trong giai đoạn tối tăm của lich sử, dân Pháp sẽ hiểu hơn ai hết những sự đau đớn và hy sinh của chúng ta, Dân Pháp sẽ can thiệp với Chính phủ để ngăn cuộc đổ máu và giữ sinh mệnh cho những lương dân vô tội »[8].
[1] Thông Đạt số 1C/VP ngày 3-1-1946 của Chủ Tịch Hồ Chí Minh gửi các ông Bộ Trưởng chỉ đạo về công tác Văn thư và Lưu trữ
[2] Luật Lưu trữ đã được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khoá XIII, kỳ họp thứ 2 thông qua tại văn bản số 01/2011/QH13, ngày 11/11/2011; Chủ tich nước công bố tại Lệnh số 10/2011/L-CTN ngày 25/11/2011
[3] Dương Kinh Quốc.Việt Nam- Những sự kiện lịch sử.Nxb KHXH,Tập 1, Hà nội, 1981. Trang 68
[4] Công báo hành chánh Nam Kỳ ( Bulletin Administratif de la Cochinchine ), 1911. tr 3208-3210
[5] Sách chỉ dẫn các Phông, sưu tập lưu trữ bảo quản tại Trung tâm lưu trữ quốc gia II. NXB Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, 2007. tr. 33 – 66
[6] Công báo hành chánh Nam Kỳ ( Bulletin Administratif de la Cochinchine ) 1909. N, 18. tr.994
[7] Thư gửi đồng bào Nam Bộ. Hồ Chí Minh Toàn tập.1945-1947, Tập 4. Nxb Sự thật.Hà Nội, 1984. tr 25-26
[8] Kêu gọi đồng bào Việt Nam ở Pháp. Hồ Chí Minh Toàn tập.1945-1947, Tập 4. Nxb Sự thật.Hà Nội, 1984. tr 48
Tin cùng chuyên mục:
Khó khăn và giải pháp khắc phục trong triển khai nhiệm vụ nộp lưu tài liệu lưu trữ số
Thực trạng triển khai công tác lưu trữ điện tử của Ủy ban Dân tộc
Văn học Sài Gòn 1954-1975 những chuyện bên lề
Sài Gòn 1698-1998 Kiến trúc quy hoạch