Bài viết góp phần làm rõ các quan điểm khác nhau (từ các góc nhìn khác nhau) về nội hàm và giá trị, ý nghĩa của tài liệu quý hiếm; nhận diện hiện trạng tài liệu quý hiếm ở Việt Nam; trên cơ sở đó nêu một số vấn đề về giữ gìn và phát huy giá trị của tài liệu quý hiếm trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước, đóng góp thiết thực vào việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam
Đầu thập niên 20 của thế kỷ XXI, Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XIII xác định đất nước đang trong bối cảnh “đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá…; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện và đồng bộ đó, lĩnh vực văn hóa được đặc biệt quan tâm với các định hướng: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; để văn hoá, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”; “Bảo vệ và phát huy các giá trị tốt đẹp, bền vững trong truyền thống văn hóa Việt Nam”.
Tuy nhiên, nhìn lại những thành quả đạt được và những tồn tại, bất cập trong lĩnh vực văn hóa, một mặt chúng ta có thể vui mừng khi “nhiều giá trị văn hóa truyền thống và di sản văn hóa được kế thừa, bảo tồn và phát huy”, nhưng mặt khác lại không thể không ưu tư khi “văn hóa chưa được quan tâm tương xứng với kinh tế và chính trị, chưa thật sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước” (Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, 2022).
Trước đó, tại Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước (tháng 6/2014), bên cạnh việc ghi nhận “nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được bảo tồn, tôn tạo”, Nghị quyết Hội nghị cũng chỉ rõ “Việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa hiệu quả chưa cao, nguy cơ mai một chưa được ngăn chặn” (Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, 2022).
Từ những nhận định mang tính chất tổng thể trên đây, đối chiếu với hiện trạng tài liệu quý hiếm – một di sản văn hóa cần được giữ gìn và phát huy giá trị, rõ ràng có nhiều vấn đề cần được lưu tâm nghiên cứu và giải quyết trên cả hai phương diện khoa học và thực tiễn.
- Trước hết, cần làm rõ các quan điểm khác nhau (từ các góc nhìn khác nhau) về nội hàm và giá trị, ý nghĩa của tài liệu quý hiếm
Bàn về khái niệm “tài liệu quý hiếm”, website của Thư viện Quốc gia Việt Nam giới thiệu quan điểm của những người làm công tác thư viện và giới nghiên cứu trong cũng như ngoài nước. Theo đó, tài liệu quý hiếm là nguồn tài liệu viết tay mang tính chất cổ xưa; là sách báo, tạp chí, bản đồ, từ điển… được xuất bản trong khoảng thời gian từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX, chứa đựng nhiều thông tin có giá trị khoa học và giá trị thực tiễn. Những tài liệu hoặc ấn phẩm này ít được xuất hiện, ít được công chúng biết tới và hiện không còn được lưu giữ nhiều. Nói khái quát, tài liệu quý hiếm là tài liệu có giá trị đặc sắc về các vấn đề lịch sử, văn hóa xã hội, khoa học; nội dung thông tin bao quát được các sự kiện, biến cố và hiện tượng đặc biệt quan trọng trong cuộc sống; số lượng bản ít, hình thức đặc biệt và khó bổ khuyết được nếu như bị mất hoặc hư hỏng, xét về ý nghĩa pháp lý và bút tích của chúng (Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, 2014).
Cũng ở góc độ thư viện, sau khi Quốc hội khóa 14 ban hành Luật Thư viện (Luật số 46/2019/QH14, ngày 21 tháng 11 năm 2019), Chính phủ đã ra Nghị định số 93/2020/NĐ-CP ngày 18 tháng 8 năm 2020 quy định chi tiết một số điều của Luật Thư viện. Điều 6 của Nghị định này xác định: Tài liệu quý hiếm phải đáp ứng một trong các tiêu chí: (1) Là bản chính, bản gốc bản thảo viết tay hoặc có bút tích của anh hùng dân tộc, danh nhân, nhân vật lịch sử tiêu biểu; (2) Là tài liệu được tạo ra trong khoảng thời gian hoặc tại nơi diễn ra các sự kiện là dấu mốc quan trọng trong lịch sử dân tộc Việt Nam; chứa thông tin về các sự kiện, biến cố và hiện tượng đặc biệt của tự nhiên, đời sống xã hội và tư duy, có ý nghĩa nền tảng đối với quản lý nhà nước, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, trật tự, an toàn xã hội, nghiên cứu khoa học, lịch sử, văn học và đáp ứng ít nhất một trong các tiêu chí sau: (a) Được thể hiện trên vật mang tin độc đáo, tiêu biểu của thời kỳ lịch sử; (b) Chỉ có một hoặc lưu giữ được rất ít bản cùng loại mà không thể hoặc rất khó bổ sung, thay thế nếu bị mất hoặc hư hỏng; (c) Độc đáo về ngôn ngữ thể hiện, hình thức trình bày, kỹ thuật chế tác hoặc tiêu biểu đại diện cho khuynh hướng, phong cách, thời đại.
Bên cạnh đó, Điều 7 của Nghị định số 93/2020/NĐ-CP còn đưa ra quy định về Bộ sưu tập tài liệu có giá trị đặc biệt về lịch sử, văn hóa, khoa học. Đó là tập hợp các tài liệu được thu thập, gìn giữ, sắp xếp có hệ thống theo những tiêu chí chung về hình thức, nội dung để đáp ứng nhu cầu tìm hiểu lịch sử, tự nhiên và xã hội, đáp ứng các tiêu chí: (a) Đặc sắc, có ý nghĩa đặc biệt về tư tưởng, chính trị, kinh tế – xã hội, khoa học, lịch sử và có tầm quan trọng đặc biệt đối với quốc gia, địa phương, xã hội, dân tộc; có ý nghĩa văn hóa đặc biệt và nền tảng đối với quản lý nhà nước, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, trật tự, an toàn xã hội, nghiên cứu khoa học, lịch sử, văn học; (b) Được hình thành trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt về thời gian, không gian; đặc sắc về phương pháp tư liệu hóa, chất liệu vật mang tin (Chính phủ, 2020). Có thể thấy, Bộ sưu tập tài liệu có giá trị đặc biệt về lịch sử, văn hóa, khoa học cũng có những tiêu chí rất gần với Tài liệu quý hiếm.
Ở góc độ lưu trữ, căn cứ Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia (2001) và Chỉ thị số 05/2007/CT-TTg ngày 02 tháng 3 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường bảo vệ và phát huy giá trị tài liệu lưu trữ, từ năm 2012 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định phê duyệt nội dung đề án “Sưu tầm tài liệu lưu trữ quý, hiếm của Việt Nam và về Việt Nam” (Quyết định số 644/QĐ-TTg ngày 31 tháng 5 năm 2012). Theo quyết định này, Tài liệu lưu trữ quý, hiếm bao gồm những tài liệu có giá trị đặc biệt, hiếm có về nội dung, hình thức vật mang tin và thời gian. Về nội dung, đó là tài liệu trực tiếp hoặc gián tiếp về chủ quyền, lãnh thổ của Việt Nam; tài liệu về hoạt động của bộ máy Nhà nước qua các thời kỳ lịch sử Việt Nam; các sự kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao… tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam mà tài liệu trong các Trung tâm Lưu trữ Quốc gia không có hoặc có nhưng không đầy đủ; tài liệu về nguồn gốc, quá trình phát triển phản ánh sinh động và chân thực cuộc sống vật chất, tinh thần, phong tục, tập quán của người Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử; tài liệu về các cá nhân, gia đình, dòng họ có nhiều dấu ấn trong lịch sử Việt Nam. Về hình thức, đó là tài liệu độc đáo về vật mang tin (lá, gỗ, vải, da, giấy dó…); độc đáo về ngôn ngữ thể hiện, hình thức trình bày, kỹ thuật chế tác (hình vẽ, hoa văn, ký hiệu, chữ viết, hình ảnh, âm thanh…); là bản chính, bản gốc, bản thảo viết tay hoặc có bút tích của các cá nhân tiêu biểu (Thủ tướng Chính phủ, 2012). Bên cạnh đó, còn có tiêu chí về thời gian, địa điểm: tài liệu được hình thành sớm trong lịch sử Việt Nam; tài liệu được tạo ra trong khoảng thời gian hoặc tại nơi diễn ra các sự kiện quan trọng, đánh dấu bước ngoặt trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Trong phạm vi bài viết này, tài liệu quý hiếm được hiểu theo nội hàm và có giá trị, ý nghĩa như đã trình bày trên.
- Vấn đề tiếp theo là cần làm rõ hiện trạng tài liệu quý hiếm ở Việt Nam
Cho đến nay, chưa có những số liệu thống kê và nhận định về toàn cục hiện trạng tài liệu quý hiếm ở Việt Nam được công bố một cách có hệ thống. Tuy nhiên, có thể nhận thức được vấn đề này ở cả hai khía cạnh tổng thể và chi tiết từ một số văn bản, tài liệu và thông tin đáng tin cậy.
Xét trên phạm vi cả nước, như đã dẫn ở đoạn mở đầu bài viết, Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước (tháng 6/2014) đã chỉ rõ thực trạng: “Việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa hiệu quả chưa cao, nguy cơ mai một chưa được ngăn chặn” (Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, 2014). Quyết định số 644/QĐ-TTg (ngày 31 tháng 5 năm 2012) của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt nội dung đề án “Sưu tầm tài liệu lưu trữ quý, hiếm của Việt Nam và về Việt Nam” đã nhận định ngay tại Điều 1: “Tài liệu lưu trữ quý, hiếm – một bộ phận di sản quý giá của dân tộc đứng trước nguy cơ ngày càng bị xuống cấp do không được bảo quản đúng chế độ” (Thủ tướng Chính phủ, 2012).
Đi vào cụ thể ở từng địa phương, có thể tìm thấy nhiều thông tin liên quan trên các phương tiện truyền thông. Xin nêu một số hiện trạng từ các tỉnh thành đã triển khai công tác sưu tầm tài liệu lưu trữ quý hiếm:
– Sáu tháng sau ngày Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định phê duyệt nội dung đề án “Sưu tầm tài liệu lưu trữ quý, hiếm của Việt Nam và về Việt Nam”, tháng 11/2012 Sở Nội vụ tỉnh Bình Định đã có các văn bản trao đổi, hợp tác với tỉnh Thừa Thiên Huế để thực hiện công việc này. Trang thông tin điện tử của Sở Nội vụ tỉnh Bình Định cho biết: “Tài liệu quý, hiếm của các gia đình, dòng họ trên địa bàn tỉnh Bình Định nói riêng và cả nước nói chung đang đặt trước sự thách thức lớn về sự tồn vong bởi thời gian, ý thức trách nhiệm của con người. Nguy cơ lớn nhất là do thiên nhiên khắc nghiệt với sự tác động liên tục của các điều kiện tự nhiên, mối mọt, lũ lụt,… làm cho các loại tài liệu này tiềm ẩn nhiều nguy cơ hư hỏng, mất mát”. Một số tài liệu quý, hiếm bị biến thành “tài sản riêng” của các cơ quan, đơn vị, cá nhân để sử dụng nghiên cứu cho các đề tài, các công trình của mình. Hầu hết số tài liệu lưu giữ trong dân và các cơ quan, tổ chức đều chưa được áp dụng chế độ bảo quản khoa học v.v. (Minh Lý, 2012).
– Tại Nghệ An, theo phản ánh của báo Nghệ An online (ngày 05 tháng 11 năm 2015), việc sưu tầm các loại tài liệu, hiện vật quý hiếm chưa tương xứng với tiềm năng về điều kiện tự nhiên, xã hội của địa phương; “có tình trạng nhiều tài liệu, hiện vật quý hiếm đang do người dân quản lý, bảo quản hoặc chưa được sưu tầm, bảo quản kịp thời, dẫn đến hư hỏng, xuống cấp và không phát huy được giá trị, thậm chí thất lạc, mất mát. Nguyên nhân chủ yếu là do công tác sưu tầm các loại tài liệu, hiện vật quý hiếm chưa được quan tâm đúng mức; địa phương chưa nghiên cứu, xây dựng được một đề cương khoa học sưu tầm tổng thể để làm cơ sở cho công tác sưu tầm một cách khoa học, bài bản, phản ánh đúng điều kiện tự nhiên – xã hội tỉnh Nghệ An” (Báo Nghệ An, 2015).
– Tại Quảng Trị, khi triển khai công tác khảo sát, thống kê về tài liệu lưu trữ quý, hiếm trên địa bàn tỉnh (từ ngày 30 tháng 10 năm 2017 đến ngày 02 tháng 11 năm 2017), Trang tin điện tử của Trung tâm Lưu trữ Lịch sử tỉnh Quảng Trị cho biết: “Thuận lợi ban đầu của công tác sưu tầm tài liệu quý, hiếm là sự quan tâm, tạo điều kiện của địa phương, của các gia đình, dòng họ. Đoàn khảo sát được trực tiếp đọc tài liệu quý, hiếm và trao đổi với các nhân chứng lịch sử ở địa phương. Tài liệu quý, hiếm có ngôn ngữ chủ yếu là Hán Nôm, là bản gốc gồm: gia phả các dòng họ tiêu biểu, các sắc phong, sắc phong thần, gia phả, địa bạ, các văn bản khế ước mua bán ruộng đất,… có niên đại từ thời Minh Mạng, Đồng Khánh, Thiệu Trị, Tự Đức, Duy Tân Khải Định, Lê, Tây Sơn,…”. Tuy nhiên, qua thực tiễn thực hiện công tác sưu tầm tài liệu lưu trữ quý, hiếm đã bộc lộ một số khó khăn, vướng mắc như: thiếu thông tin đầy đủ về các nguồn tư liệu, tài liệu lưu trữ quý, hiếm; các địa phương trong quá trình điều tra, khảo sát, thống kê, cũng như việc khai báo của các cá nhân, gia đình, dòng họ chưa đầy đủ bởi các gia đình, dòng họ xem là “đồ gia bảo” nên không tặng, cho, ký gửi hay bán. “Tài liệu quý, hiếm của các cá nhân, gia đình, dòng họ trên địa bàn tỉnh Quảng Trị phần lớn rách, mủn, khô gãy, hư hỏng, mục nát trước sự tác động của thời tiết và ý thức, trách nhiệm, chế độ bảo quản, giữ gìn của của các cá nhân, gia đình, dòng họ” (Bùi Hải Lân, 2017).
– Tại Thủ đô Hà Nội, trong lễ công bố và trao quyết định công nhận tài liệu lưu trữ quý, hiếm trên địa bàn thành phố đợt 3 (ngày 12 tháng 7 năm 2019), đại diện Cục Văn thư Lưu trữ cho biết: “Nguồn tài liệu quý giá vẫn chưa được quan tâm bảo vệ, nghiên cứu đầy đủ, xứng đáng với tầm quan trọng của các tài liệu quý giá” (Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, 2019).
– Cũng trong năm 2019, tỉnh Thừa Thiên – Huế lập Đề án sưu tầm tài liệu lưu trữ quý, hiếm của tỉnh Thừa Thiên Huế và về tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2020 – 2025. Đề án nêu rõ: “Hiện nay, do nhiều nguyên nhân khác nhau như khí hậu khắc nghiệt, ý thức con người, phương tiện bảo quản,… các loại hình tài liệu đã và đang đặt trước thách thức lớn của sự tồn vong bởi thời gian. Nguy cơ lớn nhất là do thiên nhiên khắc nghiệt với sự tác động liên tục của các điều kiện tự nhiên, mối mọt, lũ lụt sẽ làm cho các loại tài liệu thư tịch bị xuống cấp nghiêm trọng, hư hỏng, mất mát” (Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế, 2019).
Thực tế nêu trên ở một số địa phương – dù chưa đầy đủ và mang tính hệ thống – cũng đã phản ánh được bức tranh chung về hiện trạng tài liệu quý, hiếm của đất nước. Bên cạnh những tín hiệu chuyển động đáng mừng, vẫn còn có nhiều vấn đề đặt ra trong công tác sưu tầm, giữ gìn và phát huy giá trị của nguồn tài liệu đặc biệt này.
- Vấn đề giữ gìn và phát huy giá trị của tài liệu quý, hiếm trong bối cảnh hiện nay
Có thể khẳng định rằng, những vấn đề căn cơ nhất liên quan đến việc giữ gìn và phát huy giá trị của tài liệu quý hiếm đã được thể hiện đầy đủ tại Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt nội dung đề án “Sưu tầm tài liệu lưu trữ quý, hiếm của Việt Nam và về Việt Nam” (Quyết định số 644/QĐ-TTg, ngày 31 tháng 5 năm 2012) và Quyết định phê duyệt Kế hoạch tổng thể thực hiện đề án “Sưu tầm tài liệu lưu trữ quý, hiếm của Việt Nam và về Việt Nam” từ năm 2012 đến năm 2020, do Bộ trưởng Bộ Nội vụ ban hành theo đề nghị của Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước (Quyết định số 922/QĐ-BNV, ký ngày 13 tháng 8 năm 2013). Theo đó, các nội dung công việc cần thực hiện là: (a) Thông tin, tuyên truyền; (b) Xây dựng, ban hành các văn bản về cơ chế, chính sách; (c) Điều tra, thống kê và lập danh mục tài liệu lưu trữ quý, hiếm ở trong nước và nước ngoài; (d) Thẩm định danh mục tài liệu lưu trữ quý, hiếm; (đ) Sưu tầm tài liệu lưu trữ quý, hiếm; (e) Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đi sưu tầm tài liệu lưu trữ quý, hiếm; (g) Xử lý, tổ chức khoa học tài liệu lưu trữ quý, hiếm sau khi sưu tầm (Bộ Nội vụ, 2013).
Dựa trên kế hoạch tổng thể của Bộ Nội vụ, nhiều tỉnh thành trong cả nước đã xây dựng đề án sưu tầm tài liệu lưu trữ quý, hiếm tại địa phương. Dưới đây là nội dung tóm tắt một số đề án, giúp chúng ta hình dung nhận thức và giải pháp của các địa phương đối với công việc rất quan trọng nhưng không kém phần khó khăn, phức tạp này.
Là thủ đô ngàn năm văn vật, từ tháng 11/2014 Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội đã ban hành Quyết định về việc phê duyệt đề án sưu tầm tài liệu lưu trữ quý, hiếm trên địa bàn Thành phố Hà Nội (giai đoạn 2015 – 2020), nhằm “đáp ứng yêu cầu sử dụng tài liệu lưu trữ phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng của Thành phố Hà Nội; đáp ứng nhu cầu học tập, nghiên cứu của cơ quan, tổ chức và nhân dân; bảo tồn và phát huy giá trị của tài liệu lưu trữ quý, hiếm – một bộ phận di sản quý giá của dân tộc; giúp cho các tổ chức, cá nhân, gia đình, dòng họ hiểu rõ hơn về giá trị kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội tiêu biểu của tài liệu lưu trữ quý, hiếm”. Đề án dành hẳn một mục cho việc “Xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích giao nộp, hiến tặng, ký gửi, bảo quản tài liệu quý, hiếm”; một mục cho việc “Tổ chức điều tra, khảo sát, sưu tầm và lập danh mục tài liệu lưu trữ quý, hiếm”; một mục cho việc “Bảo quản, sử dụng tài liệu lưu trữ quý, hiếm” (Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội, 2014). Đây là một đề án được xây dựng bài bản, khoa học, có thể trở thành nguồn tham khảo bổ ích cho các địa phương khác trong cả nước.
Ở địa phương được mệnh danh là vùng “đất võ trời văn”, tháng 6/2017 Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định ban hành Quyết định phê duyệt đề án “Sưu tầm tài liệu lưu trữ quý, hiếm trong và ngoài tỉnh Bình Định giai đoạn 2017 – 2021”. Đề án bao gồm các nội dung công việc: (a) Tổ chức tuyên truyền mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng, tiêu chuẩn, trình tự thủ tục, chính sách đối với việc sưu tầm tài liệu lưu trữ quý, hiếm bằng các hình thức phù hợp, đạt hiệu quả; (b) Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ đi sưu tầm tài liệu lưu trữ quý, hiếm; (c) Xây dựng, đề xuất ban hành các văn bản về cơ chế, chính sách đối với việc sưu tầm tài liệu lưu trữ quý, hiếm; (d) Khảo sát, thống kê và lập danh mục tài liệu lưu trữ quý, hiếm; (đ) Tổ chức sưu tầm tài liệu lưu trữ quý, hiếm; (e) Xử lý, tổ chức khoa học tài liệu lưu trữ quý, hiếm sau khi sưu tầm (Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định, 2017).
Đối với miền đất cố đô, trong năm 2019 Sở Nội vụ tỉnh Thừa Thiên – Huế được Ủy ban nhân dân tỉnh giao nhiệm vụ xây dựng Đề án sưu tầm tài liệu lưu trữ quý, hiếm của tỉnh Thừa Thiên Huế và về tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2020 – 2025. Tham khảo và kế thừa kinh nghiệm của các địa phương bạn, Đề án đã cụ thể hóa nhiều vấn đề liên quan đến việc thu thập và phát huy giá trị tài liệu lưu trữ quý, hiếm. Một số nội dung đáng chú ý của đề án là: xây dựng cơ chế khuyến khích giao nộp, hiến tặng, ký gửi, bảo quản tài liệu quý, hiếm; tổ chức điều tra, khảo sát, sưu tầm và lập danh mục tài liệu lưu trữ quý, hiếm; thẩm định danh mục tài liệu lưu trữ quý, hiếm; bảo quản, sử dụng tài liệu lưu trữ quý, hiếm,… (Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế, 2019).
Từ các trường hợp trình bày mang tính chất đại diện trên đây, có thể thấy về mặt quản lý nhà nước, Chính phủ và các bộ, ngành cũng như các địa phương đã ban hành chủ trương, chính sách, xây dựng kế hoạch, đề án với nhiều giải pháp cụ thể để thực hiện quy trình thu thập, xử lý, bảo quản và phát huy giá trị của nguồn tài liệu quý, hiếm. Tuy nhiên, để công việc này đạt được hiệu quả thiết thực, cần chú ý thêm các vấn đề sau:
– Cùng với nguồn tài liệu quý hiếm đã được các cơ quan, tổ chức, đoàn thể… lưu giữ, bảo quản theo đúng chức trách, bảo đảm tính khoa học; hiện vẫn còn nhiều tài liệu quý hiếm đang được lưu giữ trong nhân dân (cộng đồng làng xã hoặc gia đình, cá nhân). Trong đó, có những di vật mang tính thiêng liêng, gia bảo, được xem như báu vật, vượt khỏi nội hàm của khái niệm “tài liệu quý, hiếm” (chẳng hạn như sắc phong, gia phả,…). Trải qua sự bào mòn của thời gian và những biến cố thăng trầm của lịch sử, những di vật này luôn được nâng niu, gìn giữ. Tuy nhiên, vì nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan (thiên tai, khí hậu, chiến tranh, sự bất cẩn của con người,…), không ít tài liệu loại này đã bị mất mát, bị hủy hoại. Vấn đề đặt ra là phải có “bàn tay thép” một cách hiệu quả hơn của Nhà nước trong công tác bảo vệ các di tích, di vật có giá trị lịch sử – trong đó có nguồn tài liệu quý hiếm, song song với việc nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động người dân để đạt tới mục tiêu được nêu trong Luật Di sản văn hóa: “phát huy giá trị di sản văn hóa vì lợi ích của toàn xã hội; phát huy truyền thống tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam; góp phần sáng tạo những giá trị văn hóa mới, làm giàu kho tàng di sản văn hóa Việt Nam và mở rộng giao lưu văn hóa quốc tế”.
– Để đạt được mục tiêu trên, “xã hội hóa” công tác thu thập, xử lý, bảo quản và phát huy giá trị của nguồn tài liệu quý, hiếm là vấn đề cần đặc biệt quan tâm. Thực tế cho thấy không ít trường hợp các nhóm quần chúng hoặc cá nhân với tình yêu thiết tha di sản, di vật đã tự mình (hoặc phối hợp với chính quyền địa phương) tiến hành nhiều hoạt động thiết thực, ngăn chặn hiệu quả tình trạng “chảy máu” cổ vật, mất mát tài liệu quý hiếm… Báo Nhân Dân điện tử thông tin: “Xót xa những giá trị của tư liệu cổ bị mất cắp, thời gian gần đây, nhiều nhóm quy tụ các nhà nghiên cứu, những người sưu tầm cổ vật đã thực hiện việc tìm, sưu tập và dịch lại các bản sắc phong trao trả về cho các làng. Từ năm 2015 đến nay, nhóm nhân sĩ Hà Đông đã thu thập được hơn 200 đạo sắc phong. Các nhân sĩ vẫn đang tiếp tục kêu gọi những người đang giữ đạo sắc phong trả lại, thậm chí góp tiền từ hàng chục tới hàng trăm triệu mua lại những đạo sắc phong từ những nhà sưu tầm cổ vật để tặng lại cho các địa phương” (Tuyết Lan, 2020). Những hoạt động này cần được nhân lên với sự quan tâm phối hợp của các cơ quan hữu quan trong công tác giữ gìn và phát huy giá trị của nguồn tài liệu quý, hiếm.
– Một vấn đề quan trọng khác rất cần được đẩy mạnh là tăng cường áp dụng khoa học kỹ thuật hiện đại vào việc bảo quản, giữ gìn nguồn tài liệu quý, hiếm với các giải pháp kỹ thuật phù hợp, chuyên nghiệp, trước hết là đẩy mạnh số hóa các tài liệu có nguy cơ mai một. Ngày 11 tháng 2 năm 2021 vừa qua, theo đề nghị của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Chính phủ đã phê duyệt Chương trình chuyển đổi số ngành thư viện đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Theo đó, một trong những mục tiêu của chương trình đặt ra đến năm 2025 là sẽ số hóa 70% tài liệu cổ, quý hiếm và bộ sưu tập tài liệu có giá trị đặc biệt về lịch sử, văn hóa, khoa học do các thư viện có vai trò quan trọng thu thập và quản lý (Thủ tướng Chính phủ, 2021). Ngày 02 tháng 12 năm 2021, Chính phủ tiếp tục phê duyệt Chương trình số hóa Di sản văn hóa Việt Nam, giai đoạn 2021 – 2030 với các mục tiêu cụ thể: 100% các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể và di sản tư liệu được UNESCO ghi danh; 100% các di tích quốc gia đặc biệt được số hóa và ứng dụng trên các nền tảng số. 100% các bảo vật quốc gia, các di sản trong Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia được số hóa và ứng dụng trên các nền tảng số; ưu tiên số hóa theo nhu cầu sử dụng của xã hội các di tích quốc gia và các hiện vật, nhóm hiện vật tại các bảo tàng, ban quản lý di tích; 100% người làm công tác chuyên môn trong ngành di sản văn hóa được đào tạo, đào tạo lại, cập nhật các kiến thức, kỹ năng chuyển đổi số (Thủ tướng Chính phủ, 2021). Thiết nghĩ Bộ Nội vụ, Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước cũng cần khẩn trương xây dựng đề án số hóa nguồn tài liệu quý, hiếm trong phạm vi quản lý của mình.
Như vậy, trong bối cảnh “đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá” cũng như để tăng cường “xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, việc giữ gìn và phát huy giá trị của di sản văn hóa nói chung, của nguồn tài liệu quý hiếm nói riêng là yêu cầu hết sức quan trọng và cấp thiết. Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước (tháng 6/2014) đã nhấn mạnh quan điểm: “Huy động sức mạnh của toàn xã hội nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, khích lệ sáng tạo các giá trị văn hóa mới, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu văn hóa dân tộc” (Ban Chấp hành Trung ương Đảng, 2014). Hy vọng chủ trương đúng đắn này sẽ nhanh chóng được hiện thực hóa, để nguồn tài liệu quý hiếm của đất nước sẽ được nâng niu, trân trọng và tỏa sáng giá trị quý báu của mình, góp phần thiết thực vào việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam.
TS Lê Hữu Phước*
* Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Ban Chấp hành Trung ương. (2014). Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa con người đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Hà Nội.
- Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. (21/4/2022). Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; Truy xuất từ https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xiii/bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xii-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xiii-cua-3734.
- Báo Nghệ An. (05/11/2015). Chú trọng sưu tầm các loại tài liệu, hiện vật quý hiếm. Truy xuất từ https://baonghean.vn/ chu-trong-suu-tam-cac-loai-tai-lieu-hien-vat-quy-hiem-post23368.html
- Báo Điện tử Đảng cộng sản Việt Nam. (12/7/2019). 554 Đạo sắc phong được công nhận là tài liệu lưu trữ quý, hiếm. Truy xuất từ http://dangcongsan.vn/tu-tuong-van-hoa/554-dao-sac-phong-duoc-cong-nhan-la-tai-lieu-luu-tru-quy-hiem-528376.html
- Bộ Nội vụ. (2013). Quyết định số 922/QĐ-BNV ngày 13 tháng 8 năm 2013 về phê duyệt kế hoạch tổng thể thực hiện Đề án “Sưu tầm tài liệu lưu trữ quý, hiếm của Việt Nam và về Việt Nam” từ năm 2012 đến năm 2020, Hà Nội.
- Chính phủ. (2020). Nghị định 93/2020/NĐ-CP ngày 18 tháng 8 năm 2020 về quy định chi tiết một số điều của Luật Thư viện. Hà Nội.
- Trần Phương Lan. (2008). Bàn về khái niệm tài liệu quý hiếm. Tạp chí Thư viện Việt Nam, số 13/2008, tr. 26-31
- Bùi Hải Lân. (07/11/2017). Sưu tầm tài liệu lưu trữ quý, hiếm tại các địa phương thuộc tỉnh Quảng Trị năm 2017. Truy xuất từ https://luutru.quangtri.gov.vn/index.php/vi/news/ Tin-tuc-su-kien/Suu-tam-tai-lieu-luu-tru-quy-hiem-tai-cac-dia-phuong-thuoc-tinh-Quang-Tri-nam-2017-125/.
- Minh Lý. (23/11/2012). Công tác sưu tầm tài liệu lưu trữ quý, hiếm trong và ngoài tỉnh, bổ sung vào phông lưu trữ tỉnh Bình Định. Truy xuất từ https://snv.binhdinh.gov.vn/ cong-tac-thanh-tra/cong-tac-suu-tam-tai-lieu-luu-tru-quy-hiem-trong-va-ngoai-tinh-bo-sung-vao-phong-luu-tru-tinh-binh-dinh-63.html
- Thủ tướng Chính phủ. (2021). Quyết định số 2026/QĐ-TTg ngày 02 tháng 12 năm 2021 về phê duyệt chương trình số hóa di sản văn hóa Việt Nam giai đoạn 2021-2030. Hà Nội.
- Thủ tướng Chính phủ. (2012). Quyết định số 644/QĐ-TTg ngày 31 tháng 5 năm 2012 về phê duyệt nội dung Đề án “Sưu tầm tài liệu lưu trữ quý, hiếm của Việt Nam và về Việt Nam”. Hà Nội.
- Tuyết Loan. (23/3/2020). Chung tay tìm và khôi phục sắc phong. Truy xuất từ https://nhandan.vn/di-san/chung-tay-tim-va-khoi-phuc-sac-phong-452943/.
- Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định. (2017). Quyết định số 2041/QĐ-UBND ngày 07 tháng 6 năm 2017 về phê duyệt Đề án “Sưu tầm tài liệu lưu trữ quý, hiếm trong và ngoài tỉnh Bình Định giai đoạn 2017 – 2021”. Bình Định.
- Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế. (2019). Dự thảo đề án “Sưu tầm tài liệu lưu trữ quý, hiếm của tỉnh Thừa Thiên Huế và về tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2020-2025”. Thừa Thiên Huế.
- Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. (2014). Quyết định số 6236/QĐ-UBND ngày 26 tháng 11 năm 2014 về việc phê duyệt đề án sưu tầm tài liệu lưu trữ quý, hiếm trên địa bàn Thành phố Hà Nội (giai đoạn 2015 – 2020). Hà Nội.
Tin cùng chuyên mục:
Khó khăn và giải pháp khắc phục trong triển khai nhiệm vụ nộp lưu tài liệu lưu trữ số
Thực trạng triển khai công tác lưu trữ điện tử của Ủy ban Dân tộc
Văn học Sài Gòn 1954-1975 những chuyện bên lề
Sài Gòn 1698-1998 Kiến trúc quy hoạch