Ths. Trần Thị Vui
Ngày 1-9-1858 Thực dân Pháp nổ súng vào Đà Nẵng và chiếm đảo Sơn Trà. Đến năm 1861, Pháp đặt Thống đốc – chức quan cai trị đầu tiên tại Gia Định thành. Ngày 5-6-1862, Pháp chiếm 03 tỉnh miền Đông (gồm: Gia Định, Định Tường, Biên Hoà), ngày 20-6-1867 Pháp chiếm luôn 3 tỉnh miền Tây (là Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên). Nam Kỳ hoàn toàn trở thành thuộc địa của Pháp. Năm 1874, Pháp đặt chức Khâm sứ cai quản Huế, và đến năm 1883, lập bảo hộ xứ Trung và Bắc Kỳ. Năm 1886 xứ bảo hộ thuộc Bộ Ngoại giao Pháp.
Qua báo chí, phương tiện thông tin, cho thấy giới doanh nghiệp Pháp, ngay sau khi thực dân Pháp đánh chiếm Sài Gòn – Gia Định, đã kêu gọi chính phủ Pháp cần nhanh chóng chinh phục toàn bộ Đông Dương, trong đó ưu tiên thiết lập ngay một thương cảng ở Sài Gòn. Giới thương gia Pháp cho rằng trên biển Ấn Độ, người Pháp chỉ mới có một thuộc địa La Réunion và Pondi chéry mà chưa có một điểm dừng chân nào ở vùng đất Đông Dương. Vì thế, chinh phục được đất An Nam là cơ sở và cơ hội để mở rộng địa bàn của Pháp ra toàn cỏi Đông Dương, mở rộng vùng thuộc địa.
Thực dân Pháp nhận thấy tầm quan trọng to lớn của việc mở mới một cảng vận tải ở Nam Kỳ để phục vụ việc xuất nhập khẩu, nên từ năm 1860, người Pháp đã cho phép một số tư sản người Hoa ở Singapore đến Sài Gòn nhận thầu xây bến tàu dài 1.800m trên bờ sông Sài Gòn để xuất khẩu lúa gạo. Theo Charles Lemire, cảng Sài Gòn bắt đầu hoạt động từ ngày 22-2-1860 để xuất khẩu mọi loại hàng hoá. Lúc này, quy định thuế cho tàu bè vào ra cảng Sài Gòn là 2fr/ton-rô bao gồm thuế hải đăng, thuế phù tiêu, thuế bến, thuế cảnh sát hải cảng, thuế bỏ neo[1].
Sở dĩ thực dân Pháp chọn Sài Gòn mở cảng lớn là vì họ nhận thấy ở đây những ưu điểm rất tốt như cảng này nằm ở vị trí rạch Tàu Hũ đổ ra sông Sài Gòn thuận tiện cho tàu ghe bốc gạo từ Chợ Lớn chở đến. Hải trình từ Vũng Tàu đến cảng chỉ mất khoảng 4-5 giờ. Ngoài vị trí thuận lợi, cảng Sài Gòn so với các cảng khác ở Đông Dương còn những ưu việt khác như: cảng không bị phủ bùn; dòng chảy của sông Sài Gòn và sông Đồng Nai không mạnh, độc lập với sông Mekong về chế độ thuỷ lưu, luồng lạch vào cảng sâu và rộng, tàu trọng tải lớn có thể vào tận cảng; cảng Sài Gòn còn có thể mở rộng về phía hạ lưu sông Sài Gòn, có những vũng thông với biển, thuận lợi cho việc phát triển thương mại, có triển vọng thu hút một số tàu từ Singapore đi Java hay Hồng Kông qua lại ngoài khơi; một lợi thế cần phải nhắc đến nữa của cảng Sài Gòn là thông với đại dương nhưng lại nằm sâu trong đất liền, nên tránh được những cơn cuồng phong từ đại dương[2].
Với việc thiết lập cảng Sài Gòn, thực dân Pháp đã biến Sài Gòn thành trung tâm của Địa Trung Hải ở châu Á, có vị trí chiến lược nằm trên các tuyến hàng hải nối liền Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương. Lúc này, nhắc tới vùng đất Đông Nam Á, người ta không thể quên được cái tên Singapore gắn với thực dân Anh, và Sài Gòn gắn với thực dân Pháp. Vài thập niên sau khi chiếm Sài Gòn, thực dân Pháp đã biến Sài Gòn không chỉ thành một điểm dừng chân như Singapore mà còn trở thành đầu mối của các tuyến hải vận từ châu Âu sang vùng Viễn Đông.
Để quản lý và khai thác cảng Sài Gòn một cách triệt để và thuận lợi nhất cho chính quốc, thực dân Pháp tiến hành nhiều cải cách, cải tổ liên quan đến thương cảng này. Năm 1914, thực dân Pháp quyết định thành lập cảng tự trị Sài Gòn. Trước đó, cảng này thuộc quyền quản lý của chính quốc rồi sau đó chuyển giao cho chính quyền thuộc địa. Nhưng nay, nhận thấy sự phát triển vượt bậc của cảng Sài Gòn, thực dân Pháp cho phép cảng Sài Gòn hoạt động độc lập dưới quyền của một Hội đồng quản trị. Điều đó được thể hiện trong “Sắc lệnh ngày 2-1-1914 về việc thành lập cảng tự trị Sài Gòn”[3]. Theo sắc lệnh này, kể từ năm 1914, thực dân Pháp cho phép thành lập một Hội đồng Quản trị cảng Sài Gòn để quản lý thương cảng này. Trong một công điện của Quyền Thống đốc Nam kỳ gửi Đốc lý Sài Gòn thể hiện về sắc lệnh nói trên như sau: “Tôi lấy làm vinh dự báo cho ông biết rằng, Sắc lệnh ngày 02/01/1914 v/v thành lập Thương cảng tự trị Sài Gòn sẽ được ban hành tại Thuộc địa. Vấn đề là phải quan tâm đến việc bổ nhiệm thành viên cho Hội đồng Quản trị mới thành lập theo các điều kiện tại Điều 3 của Sắc lệnh nêu trên”[4].
Điều 3 của Sắc lệnh ngày 2-1-1914 quy định về thành viên Hội đồng quản trị phải do Hội đồng thánh phố Sài Gòn chỉ định theo tiêu chí: “1. Thành viên Hội đồng Quản trị: một thành viên là công dân Pháp được chọn trong số các thành viên của Hội đồng Thành phố Sài Gòn; 2. Ủy viên Hội đồng dự bị: một ủy viên dự bị là công dân Pháp được chọn, theo điều kiện giống như điều kiện chọn thành viên chính thức”[5]. Theo điều 3 của Sắc lệnh này, thì ngoài Chủ tịch và Phó Chủ tịch ra, các thành viên được chia làm hai nhóm là thành viên chính thức và thành viên dự bị. Thành phần tham gia vào Hội đồng quản trị là những người đại diện của Hội đồng thuộc địa, Phòng thương mại Sài gòn, Hội đồng thành phố Sài Gòn, Hội đồng thành phố Chợ Lớn, Phòng thương mại Trung Hoa, đại diện chủ tàu, giới thương mại và công nghiệp, đại diện ngành công nghiệp hàng hải, đại biểu chính phủ toàn quyền…Các vị trí chủ chốt của Hội đồng quản trị là người Pháp, người Việt Nam rất ít được tham gia, hoặc chỉ được tham dự những vị trí không quan trọng. Ngay sau khi ban hành sắc lệnh ngày 2-1-1914, một Hội đồng quản trị cảng Sài Gòn đã được thành lập và đi vào hoạt động.
Tuy nhiên, khi đi vào hoạt động, chính quyền thuộc địa nhận thấy nhiều vấn đề chồng chéo vì chưa có một quy định cụ thể nào về thể thức hoạt động của Hội đồng này. Cho nên, họ bắt đầu bàn đến việc thiết lập một bản quy chế quy định cụ thể quyền hạn và nghĩa vụ cũng như trách nhiệm của Hội đồng quản trị. Từ tháng 4 đến tháng 8 năm 1914, quy chế về hoạt động của Hội đồng quản trị cảng Sài Gòn đã được chính quyền thuộc địa họp bàn nhiều lần. Họ đã phác hoạ một bản dự thảo quy định về các hoạt động của Hội đồng quản trị cảng Sài Gòn. Trong một bản báo cáo của Kỹ sư trưởng – Chủ tịch Hội đồng quản trị thương cảng Sài Gòn gửi Thống đốc Nam kỳ ngày 13-8-1914 thể hiện điều đó, rằng: “Sắc lệnh ngày 02/01/1914, được ban hành ở Thuộc địa, qua Nghị định ngày 25/02/1914 v/v thành lập cảng tự trị Sài Gòn tại Điều 20, cùng với một số Nghị định của Toàn quyền, quy định các điều kiện áp dụng Sắc lệnh này.
Theo báo cáo số 3864 ngày 10/4/1914, để bảo đảm việc áp dụng các điều khoản nói trên, tôi đã trình bày một số dự thảo nghị định quy định. Tuy nhiên, dường như Toàn quyền Đông Dương đã đơn giản hóa toàn bộ các điều khoản đã quy định, bằng một văn bản duy nhất để ấn định quy chế của Hội đồng Quản trị Cảng và được ban hành bằng một nghị định áp dụng.
Căn cứ vào các nội dung chỉ dẫn này, chúng tôi đã chuẩn bị một dự thảo về quy chế của Hội đồng, theo ý kiến của viên Quan quản ngân khố Nam kỳ. Bản quy chế này đã được Thống đốc Nam kỳ điều chỉnh một số khoản và đã đệ trình lên Toàn quyền xem xét lần một. Sau đó, bản dự thảo quy chế được gửi đến cho mỗi thành viên trong Hội đồng Quản trị cảng để góp ý. Tại phiên họp lần thứ nhất của Hội đồng diễn ra ngày 07/8, dự thảo quy chế trên đã được toàn thể thành viên hội đồng nhất trí thông qua. Hội đồng đã nhận thấy rằng, cũng nên xem xét thật chi tiết để hoàn thiện hơn bản quy chế. Đồng thời, cũng phải sớm thông qua văn kiện này, để đảm bảo trong một thời gian ngắn nhất có thể đưa vào hoạt động Hội đồng Quản trị cảng; Trong thời gian hoạt động, những thay đổi và điều chỉnh từ kinh nghiệm thực tế sẽ được bổ sung.
Cách thức thực hiện này, hoàn toàn được đồng ý và không gặp bất cứ sự phản đối nào từ phía chính quyền, vì những đề nghị của hội đồng đã được chấp thuận.
Hội đồng mong muốn thông qua giải pháp trên trong một một thời hạn ngắn nhất và không đợi đến khi biên bản họp ngày 07/8 được hình thành, vì phải mất một thời gian khá dài, tôi lấy làm vinh dự, sau khi liên lạc với Chủ tịch Hội đồng Quản trị, đề nghị Thống đốc Nam kỳ đệ trình lên ngài Toàn quyền Đông Dương tán thành quy chế nói trên và dự thảo Nghị định áp dụng”[6].
Sau khi dự thảo được thông qua, ngày 15-10-1914, chính quyền thuộc địa chính thức ban hành nghị định về quy chế của Hội đồng quản trị cảng. Gần hai tháng sau, ngày 4-12-1917, một nghị định nữa về quy định hoạt động của Hội đồng quản trị thương cảng Sài Gòn được ban hành để bổ sung cho nghị định ngày 15-10-1914[7].
Theo các Nghị định do chính quyền thuộc địa ban hành, Hội đồng quản trị cảng Sài Gòn có nhiều quyền hạn như quản lý mọi hoạt động của cảng từ quản lý tàu bè, hàng hoá, đến nhân sự; quyền đề xuất những vấn đề liên quan đến cảng; đề xuất và thực hiện việc mở rộng cảng gồm trưng dụng, thu mua đất, chọn nhà thầu…
Các thành viên Hội đồng quản trị có nhiều biến động theo năm hoặc theo từng giai đoạn. Tài liệu về Hội đồng quản trị đầy đủ còn lại là năm 1921. Căn cứ Nghị định ngày 10-01-1921 thì Chủ tịch là ông Bergier và Phó Chủ tịch là Rouelle, các thành viên Hội đồng quản trị cảng gồm[8]:
Thành viên chính thức | Thành viên dự bị | |
Thành viên Hội đồng Thuộc địa | Michel – Villaz
Truong Van Ben |
Casta Mumio
Le Ba Cang |
Thành viên Phòng Thương mại Sài Gòn | De la Pommeraye
J.Duclos |
M.Trefaut
Ardin |
Thành viên Hội đồng Thành phố Sài Gòn | Labbe (đã từ chức)
Lancelin |
Ballous
Jourbert |
Thành viên Hội đồng Thành phố Chợ Lớn | Ducroiset | J. Mazet |
Thành viên Phòng Thương mại Trung Hoa | Tsa Tsang Ye | Hong Bi |
Đại diện Chủ tàu, giới Thương mại và Công nghiệp | Rousseau
Richaud |
Bertrand
Littaye |
Đại diện ngành Công nghiệp Hàng hải | Rouelle | Rogez
Paillet |
Đại biểu chính phủ Toàn quyền | Cheurlin | Lauber |
Hội đồng quản trị cảng Sài Gòn được thành lập cùng với sắc lệnh lập cảng tự trị Sài Gòn năm 1914 đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử phát triển cảng Sài Gòn thời thuộc Pháp. Nó thể hiện sự phát triển nhanh chóng của cảng Sài Gòn ở vùng đất Nam Kỳ nói riêng và xứ Đông Dương nói chung. Từ sự quản lý trực tiếp của chính quyền thuộc địa, cảng Sài Gòn được quyền hoạt động dưới quyền của Hội đồng quản trị. Tất nhiên, Hội đồng quản trị này vẫn phải chịu sự chi phối của chính quyền thuộc địa. Thực tế rằng, người Việt Nam hầu như không hoặc rất ít được tham dự vào Hội đồng quản trị cảng. Các thành viên của Hội đồng là người Pháp hoặc chí ít là người mang quốc tịch Pháp. Vì vậy, chỉ có một số rất ít người Việt Nam mang quốc tịch Pháp được tham gia.
[1] Theo Nguyễn Phan Quang, Cảng Sài Gòn thời Pháp thuộc, tạp chí NCLS, số 2/2000, tr.78.
[2] Dẫn theo Nguyễn Phan Quang, tlđd, tr.79.
[3] Hồ sơ 3333, bản số 17, phông thống Đốc Nam Kỳ, TTLTQGII.
[4] Hồ sơ 3333, bản số 2, phông Thống đốc Nam kỳ, TTLTQGII.
[5] Hồ sơ 3333, bản số 2, phông Thống đốc Nam kỳ, TTLTQGII.
[6] Hồ sơ 3333, bản số 6, phông Thống đốc Nam Kỳ , TTLTQGII.
[7] Hồ sơ 5561, bản số 1, phông Thống đốc Nam Kỳ, TTLTQGII.
[8] Hồ sơ 3333, bản 26, phông Thống đốc Nam Kỳ, TTLTQGII.
Tin cùng chuyên mục:
Khó khăn và giải pháp khắc phục trong triển khai nhiệm vụ nộp lưu tài liệu lưu trữ số
Thực trạng triển khai công tác lưu trữ điện tử của Ủy ban Dân tộc
Văn học Sài Gòn 1954-1975 những chuyện bên lề
Sài Gòn 1698-1998 Kiến trúc quy hoạch