Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giành trọn cuộc đời của mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Đến khi khuất núi, Bác cũng đã để lại cho dân tộc ta một di sản tư tưởng hết sức đồ sộ, trong đó có giáo dục.
Quan điểm “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người” của Bác đã khẳng định rõ ràng “Trồng người” là chiến lược hàng đầu của cách mạng. Để chiến lược trồng người đó được thực hiện có hiệu quả, không thể phủ nhận vai trò cốt lõi của giáo dục.
Trong khuôn khổ một bài viết ngắn, chúng tôi xin đề cập đến giáo dục ở các khía cạnh sau: sự quan tâm của Bác đến giáo dục, triết lý giáo dục, du học sinh, việc học ngoại ngữ, “tự lục cánh sinh” trong giáo dục. Đó là những vấn đề cấp thiết trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự phát triển hết sức mạnh mẽ của cách mạng khoa học – kỹ thuật mà hầu như quốc gia nào cũng nào cũng quan tâm.
Những chăm lo của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho giáo dục
Sự quan tâm đến giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Giáo dục là một lĩnh vực quan trọng trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Học giả Hoàng Ngọc Vĩnh với công trình Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục Việt Nam công phu thống kê trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh có :
– 592 lần Người nhắc đến “giáo dục”;
– 159 lần nhắc đến “đào tạo”;
– 190 lần nhắc đến “trường học”;
– 99 lần nhắc đến “đại học”;
– 92 lần nhắc đến “trường học giáo sư”;
– 81 lần nhắc đến “giáo viên”;
– 80 lần nhắc đến “thầy giáo”;
– 145 lần nhắc đến “sinh viên”;
– 225 lần nhắc đến “học sinh”.
Ngoài ra, Người còn đề cấp đến tất cả các phạm trù “dạy học”, “dạy người”, “dạy chữ”, các cấp học “nhà trẻ”, “mẫu giáo”, “tiểu học”, “trung học”, “trung cấp”, “cấp I”, “cấp II”, “cấp III”, “cao đẳng”, “đại học”, “cao học”; các loại hình giáo dục và đào tạo “phổ thông”, “trung cấp chuyên nghiệp”, “dạy nghề”, “vừa học vừa làm”…”[1].
Di sản tư tưởng về lĩnh vực giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mà cụ thể hơn là giáo dục trong nước, đã được nhiều học giả đi sâu nghiên cứu, tìm tòi, không khó để khai thác, tìm hiểu tư tưởng của người về lĩnh vực này. Tuy nhiên, lĩnh vực hợp tác quốc tế trong giáo dục thì thật sự chưa có nhiều bài nghiên cứu đề cập đến. Chính vì thế, trong nội dung bài viết đề cập, bài viết xin góp thêm một cách tiếp cận mới về tư tưởng Hồ Chí Minh trong giáo dục, đặc biệt là lĩnh vực hợp tác quốc tế trong giáo dục.
Triết lý giáo dục
Khi nhắc đến giáo dục của bất kỳ một quốc gia nào, những nội dung được quan tâm sẽ thường là chương trình, sách giáo khoa, giáo trình, giáo viên và học sinh, quá trình dạy và học, cơ sở vật chất kỷ thuật, triết lý giáo dục…Trong đó, triết lý giáo dục là một trong những yêu cầu cần phải xác định đầu tiên. Rõ ràng giáo dục mỗi nước cần phải xác định triết lý, mục tiêu, sứ mệnh của nền giáo dục nước mình để sao cho phù hợp với tình hình đất nước.
Những người làm giáo dục nói chung hẳn điều biết 4 trụ cột giáo dục mà UNESCO đã khẳng định trước toàn thế giới trong thế kỷ XXI vào năm 1996:
– Học để có kiến thức (learning to know)
– Học để làm việc (learning to work)
– Học để chung sống với nhau (learning to live together)
– Học để làm người (learning to be)
Thực ra, những triết lý này, trước đó 47 năm, đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra khi Người viết: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại. Muốn đạt mục đích, thì phải cần kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”[2]. Về câu chữ, chúng ta thấy không hẳn hoàn toàn ăn khớp với nhau, nhưng về ngữ nghĩa, ý tưởng có thể nói gần giống nhau.
Trong thời đại toàn cầu hóa và khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ như hiện nay, việc xác định triết lý giáo dục cho đất nước, cũng như tìm hiểu những tư tưởng của Người cần được đẩy mạnh, để định hướng cho việc phát triển nền giáo dục trong nước, tạo thế và lực mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới.
Với du học sinh
Cách đây khoảng gần mười năm, tại Hải Phòng, Hội nghị Việt-Mỹ được tổ chức với nội dung là triển khai chương trình học bổng cho sinh viên Việt Nam. Tổng thống Mỹ Bill Clinton đề nghị phía Việt Nam có thể cử học sinh sang học tập và nghiên cứu tại các trường hàng đầu của Mỹ, đồng thời, không quên nhấn mạnh đây là cơ hội to lớn và hiếm hoi mà phía ta nên nắm lấy. Đại diện phía ta không quên nói lời cảm ơn đồng thời nhắc lại bức thư mà chỉ hai tháng sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công (1-11-1945), Bác đã gửi cho tổng thống Mỹ thông qua Ngoại trưởng James F.Byrnes. Nội dung bức thư như sau:
“Thưa Ngài!
Nhân danh Hội văn hoá Việt Nam, tôi xin được bày tỏ nguyện vọng của Hội, được gửi một phái đoàn khoảng năm mươi thanh niên Việt Nam sang Mỹ với ý định một mặt thiết lập những mối quan hệ văn hoá thân thiết với thanh niên Mỹ, và mặt khác để xúc tiến việc tiếp tục nghiên cứu về kỹ thuật, nông nghiệp cũng như các lĩnh vực chuyên môn khác.
Nguyện vọng mà tôi đang chuyển tới Ngài là nguyện vọng của tất cả các kỹ sư, luật sư, giáo sư Việt Nam, cũng như những đại biểu trí thức khác của chúng tôi mà tôi đã gặp.
Trong suốt nhiều năm nay họ quan tâm sâu sắc đến các vấn đề của nước Mỹ và tha thiết mong muốn tạo được mối quan hệ với nhân dân Mỹ là những người mà lập trường cao quý đối với những ý tưởng cao thượng về công lý và nhân bản quốc tế, và những thành tựu kỹ thuật hiện đại của họ đã có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với giới trí thức Việt Nam.
Tôi thành thực hy vọng kế hoạch này sẽ được thuận lợi nhờ sự chấp thuận và giúp đỡ của Ngài, và nhân dịp này tôi xin gửi tới Ngài những lời chúc tốt đẹp nhất”[3].
Như vậy, thiện chí được gửi du học sinh đến học tập và nghiên cứu tại đất nước Mỹ của Bác mà trong hội nghị này phía Mỹ chủ động đề nghị và nhấn mạnh là cơ hội “to lớn và hiếm hoi” đã bị khước từ cách thời điểm diễn ra Hội nghị hơn nữa thế kỷ, giờ tâm nguyện ấy mới được thực hiện.
Mặc dù ý muốn gửi du học sinh Việt Nam đến Mỹ học tập nghiên cứu không thực hiện được, song Bác và nhà nước ta cũng đã gửi du học sinh đến một số nước khác thành công như: Liên Xô, Trung Quốc, các nước XHCN Đông Âu, CHDCND Triều Tiên, Cu Ba…Mặc dù trong thời điểm đất nước đang khó khăn, Bác vẫn chú trọng việc hợp tác quốc tế trong giáo dục. Chuẩn bị cho tương lai đất nước một nguồn nhân lực tốt hơn – rõ ràng điều này thể hiện sự “nhìn xa trông rộng” của một tư tưởng lớn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc học ngoại ngữ
Ngoại ngữ là một trong những rào cản lớn nhất trong tiến trình hội nhập với thế giới. Ngày nay, Đảng và nhà nước ta đang đẩy mạnh việc học ngoại ngữ (tiếng Anh) trong các cấp giáo dục. Nhìn chung, việc học ngoại ngữ vẫn chưa thực sự hiệu quả. Nhìn vào bảng so sánh sau đây chúng ta có thể phần nào thấy được điều đó.
Bảng so sánh chất lượng của người lao động Việt Nam
và chất lượng lao động của người lao động ở các nước phát triển[4]
Hàn Quốc |
Trung Quốc | Indonesia | Philippine | Malaysia | Thái Lan |
Việt Nam |
|
Thông thạo tiếng Anh | 4,0 | 3,62 | 3,0 | 5,40 | 4,0 | 2,82 | 2,62 |
Bác là một tấm gương sáng trong học ngoại ngữ. Việc học để có thể sử dụng ngoại ngữ tốt phụ thuộc vào nhiều điều kiện (tâm lý của mỗi người, tài chính, tài liệu, điều kiện học tập, hoàn cảnh sống…). Tuy nhiên, chúng ta ngày nay có thể tham khảo cách học ngoại ngữ Bác. Như chúng ta đã biết, Bác biết nhiều ngoại ngữ như tiếng Anh, Pháp, Đức, Nga, Ý, Trung Quốc, Xiêm (Thái Lan), Tây Ban Nha, Ả Rập, và tiếng của nhiều dân tộc thiểu số Việt Nam… Bác có thể trao đổi trực tiếp với các nguyên thủ quốc gia cũng như phóng viên quốc tế trực tiếp bằng ngôn ngữ của họ. Ngoài ra, Bác cũng tiếp cận với tư liệu nước ngoài một cách trực tiếp mà không qua bản dịch. Đây là một tấm gương cho giới học thuật nói chung, tức là cần phải nâng cao học tập ngoại ngữ để có thể tiếp cận tư liệu nước ngoài mình cần mà không qua bản dịch của người khác.
Như vậy, Bác đã học ngoại ngữ như thế nào? Nghiên cứu về vấn đề này, chúng ta có thể thấy rõ động lực để Bác học tốt ngoại ngữ là “học ngoại ngữ để tìm đường cứu nước”, cùng với đó là ý chí, quyết tâm và sự kiên trì, “đói rét không thể cản bước người ham học, tự học”…Về vấn đề này, tác giả Phạm Ngọc Huệ có hẳn một bài viết khá công phu Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc học ngoại ngữ để phục vụ tổ quốc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, thế nên chúng tôi không cố gắng đi sâu vào vấn đề này. Ở đây, chúng tôi muốn nhấn mạnh tấm gương học tập ngoại ngữ của Bác, mà mỗi người tùy hoàn cảnh của mình có thể vận dụng cho phù hợp.
“Tự lực cánh sinh” trong giáo dục
Thời kỳ đất nước còn ngập chìm trong khói lửa chiến tranh, mặc dù rất trân trọng sự giúp đở của quốc tế nhưng Bác vẫn nhấn mạnh tinh thần độc lập tự chủ. Người từng nói: “Kháng chiến trường kỳ gian khổ đồng thời phải tự lực cánh sinh…Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi trông chờ vào dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”[5]. Đây là một bài học mà hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục cần lưu ý.
Trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế như hiện nay, vấn đề hòa nhập nhưng không hòa tan, vẫn giữ gìn được bản sắc văn hóa của dân tộc cực kỳ quan trọng. Hòa nhập, giúp đỡ lẫn nhau là cần thiết, nhưng không vì thế mà ỷ lại, mà phải “tự lực cánh sinh”. Trong giáo dục đó là việc xây dựng một nền giáo dục vững mạnh, tiên tiến, hiện đại, làm chỗ dựa để giúp cho hoạt động hợp tác quốc tế được hiệu quả hơn, chứ không hẳn là sự trông chờ vào sự viện trợ (tài chính, giúp dỡ về đội ngủ giảng viên, học thuật, xây dựng cơ sở vật chất kỷ thuật…) từ nước khác. “Tự lực cánh sinh trong giáo dục”, chúng tôi nhấn mạnh sự chủ động xây dựng nền giáo dục trong nước sao cho trở thành đối tác xứng tầm với đối tác của chúng ta, xa lạ với thái độ thụ động, trông chờ sự giúp đỡ từ bên ngoài. Tự lực cánh sinh trong giáo dục cũng xa lạ với thái độ “tự cô lập”, “ một mình một kiểu”, coi nhẹ sự giúp đỡ từ bên ngoài, nhưng cũng không coi đó là yếu tố quyết định sự phát triển của nền giáo dục trong nước.
Kết luận
Quan niệm “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người” đã cho thấy tầm nhìn chiến lược của Bác. Đó chính là việc coi trọng con người, coi trọng sự nghiệp “trồng người”. Điều mà nhóm Tương lai học Megatrendo công bố năm 1990: “một nước nghèo cũng có thể phát triển được, miễn là nó đầu tư đầy đủ cho con người của nó”[6] đã được Bác nêu ra trước đó. Vai trò của giáo dục đối với hình thành tính người, được Bác nêu rõ: “Hiền dữ phải đâu do tính sẵn/ Phần nhiều do giáo dục mà nên” hay “Học để làm người” (tương ứng với trụ cột thứ 4: learing to be mà UNESCO công bố năm 1996). Quán triệt quan điểm đó, Đảng xác định: “lấy phát huy nguồn lực con người làm mục tiêu cho sự phát triển nhanh và bền vững”, đồng thời khẳng định: “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học công nghệ phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu”.
Ngày nay, bối cảnh đất nước đã có nhiều thay đổi, quan niệm giáo dục của Bác còn mở rộng nội hàm ra, không bó hẹp trong phạm vi quốc gia mà còn liên quan đến các vấn đề hợp tác quốc tế. Sự nghiệp giáo dục trong tư tưởng của Bác ngoài việc nhấn mạnh sự quan tâm hơn nữa với giáo dục, đến triết lý nhân sinh, còn là sự mở rộng mối quan hệ với các nước tiên tiến để học hỏi, tiếp thu trí tuệ.
Đã 46 năm kể từ ngày Bác đi “gặp các cụ Các Mác, Lê Nin và các vị cách mạng đàn anh khác”8 tình cảm của hàng triệu con người Việt Nam đối với Bác vẫn không thay đổi – vẫn giành cho Bác tình cảm thiêng liêng, kính trọng, không từ ngữ nào có thể diễn tả hết.
Và di sản tư tưởng Người để lại mãi là nguồn tài liệu quý giá, mang tính định hướng cho nhiều vấn đề của thời đại ngày nay, dĩ nhiên trong đó có vấn đề đào tạo và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục, cần tiếp tục đào sâu nghiên cứu, khai thác.
Riêng đối với chúng tôi, những người tham gia trực tiếp vào sự nghiệp “trồng người”, di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ là ánh sáng soi đường, giúp chúng tôi có những nhận thức và hành động đúng đắn trong công tác giáo dục của mình.
Dương Tấn Giàu
Giảng viên Khoa Lịch sử, Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh
[1] Hoàng Ngọc Vĩnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục của Việt Nam, www.husc.edu.vn/ viewpage.php?page_id=33)
[2] Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 6, Nxb. CTQG, 1995
[3] Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 4, Nxb. CTQG, 1995, tr. 80-81
[4] Nguồn: Trần Thị Bích Liễu, Nâng cao chất lượng giáo dục Đại học ở Mĩ: Những giải pháp mang tính hệ thống và định hướng thị trường, Nxb. Đại học sư phạm, 2008 tr. 258
[5] Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 6, Nxb. CTQG, 1995, tr. 522
[6] Đào trọng Hùng, Nguyễn Mạnh Hùng (Cb), Ngành giáo dục, đào tạo phía Nam bước vào thế kỷ 21, Nxb. Trẻ, 1999, tr. 64
Tin cùng chuyên mục:
Khó khăn và giải pháp khắc phục trong triển khai nhiệm vụ nộp lưu tài liệu lưu trữ số
Thực trạng triển khai công tác lưu trữ điện tử của Ủy ban Dân tộc
Văn học Sài Gòn 1954-1975 những chuyện bên lề
Sài Gòn 1698-1998 Kiến trúc quy hoạch