VÙNG ĐẤT BÌNH PHƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN 1954-1975
Năm 1954, với chiến thắng Điện Biên Phủ, nhân dân Việt Nam buộc thực dân Pháp phải ký kết Hiệp định Genève, công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Tuy nhiên, âm mưu biến miền Nam Việt Nam thành con đê ngăn chặn làn sóng đỏ, Mỹ đưa Ngô Đình Diệm về nước thiết lập chính quyền tay sai thân Mỹ.
Trong hai năm 1954-1955, thực hiện thâu tóm quyền lực, Ngô Đình Diệm tập trung tiêu diệt các phe phái đối lập nên chưa tiến hành cải tổ nền hành chính địa phương mà chỉ tiến hành bãi bỏ tư cách pháp nhân của các phần (Bắc Việt, Trung Việt và Nam Việt). Đồng thời, thay chế độ thủ hiến ở Nam Việt bằng các ủy ban hành chính cho phù hợp với thực tế (Dụ số 21 ngày 4-8-1954).
Cuối năm 1955, sau khi đánh bại các lực lượng giáo phái, tổ chức truất phế Bảo Đại, tự đưa mình lên ngôi vị Tổng thống, thiết lập ở miền Nam Việt Nam chính thể cộng hòa, Ngô Đình Diệm tập trung mũi nhọn, âm mưu tiêu diệt lực lượng cách mạng và đồng bào yêu nước đã tham gia kháng chiến chống Pháp. Diệm huy động mọi tiềm lực của bộ máy chính quyền, gồm lực lượng vũ trang, bộ máy tuyên truyền, các đoàn tố cộng, bộ máy kìm kẹp, tề điệp ở cơ sở vào chiến dịch “tố cộng, diệt cộng” – một chiến dịch tổng thể, dài hơi, kết hợp giữa hành quân đàn áp và chiến tranh tâm lý thông qua các hình thức lừa mị, đấu tố, tổ chức học tập “tẩy não”,….
Từ tháng 7-1956, ở miền Đông Nam bộ, chính quyền Diệm tiến hành chiến dịch Trương Tấn Bửu nhằm tiêu diệt cơ sở “Việt cộng”, bình định nông thôn. Trên địa bàn Bình Phước, quân đội Sài Gòn liên tiếp thực hiện các cuộc hành quân lùng sục vào khu vực các đồn điền cao su và những nơi trong kháng chiến chống Pháp là địa bàn hoạt động của cách mạng như Lộc Ninh, Bù Đăng, đường giao liên Đồng Xoài – Phước Long,… Trong khi, ở nông thôn, bộ máy kìm kẹp, tề điệp của chính quyền Sài Gòn tiến hành thanh lọc, phân loại quần chúng, mở hàng loạt lớp “tố cộng”, thực hiện đấu tố “Việt cộng” công khai.
Song song với bình định, nhằm tằng cường bộ máy kìm kẹp ở miền Nam Việt Nam, chính quyền Sài Gòn tiến hành cải tổ toàn bộ nền hành chính địa phương. Mở đầu bằng Dụ số 17 ngày 24-12-1955, thay thế chế độ Uỷ ban tại các phần bằng các Đại biểu chính phủ. Ngày 23-10-1956, bằng Sắc lệnh số 144a/TTP, chính quyền Ngô Đình Diệm tiến hành thay đổi tên gọi và địa giới các vùng trong toàn lãnh thổ Việt Nam. Theo đó, Nam Việt, Bắc Việt, Trung Việt từ nay được gọi là Nam phần, Trung phần và Bắc phần (chỉ trên danh nghĩa).
Ngày 24-10-1956, Ngô Đình Diệm ban hành tiếp Sắc lệnh số 147-a ấn định chia Trung phần làm hai miền Cao nguyên và Trung nguyên. “Lãnh thổ Cao nguyên Trung phần là lãnh thổ của cao nguyên miền Nam cũ; Lãnh thổ Trung nguyên Trung phần là lãnh thổ của cai nguyên miền Trung cũ; Tại Trung phần sẽ có một đại biểu Chính phủ và một đại biểu phụ tá; Trụ sở toà đại biểu Trung phần đặt tại Ban Mê Thuật; Trụ sở toàn đại biểi phụ tá đặt tại Huế.”[1] Sau đó, bằng Sắc lệnh Sắc lệnh số 87-TTP ngày 15-4-1959 và Sắc lệnh 138 ngày 18-6-1959, chính quyền Diệm chia miền Nam Việt Nam thành Tây Nam Nam phần và miền Đông Nam phần. Theo đó, Tây Nam Nam phần gồm các tỉnh: Long An, Định Tường, Kiến Tường, Kiến Phong, Kiến Hoà, Vĩnh Bình, Vĩnh Long, An Giang, Kiên Giang, Phong Dinh, Ba Xuyên, An Xuyên. Và miền Đông Nam phần gồm các tỉnh: Gia Định, Bình Dương, Tây Ninh, Biên Hòa, Bình Long, Phước Long, Phước Thành, Long Khánh, Phước Tuy, Bình Tuy.
Đối với địa phương, ngày 24-10-1956, Diệm ban hành Dụ 57a cải tổ toàn bộ hệ thống hành chính từ tỉnh xuống đến xã, ấp. Theo đó, tổ chức hành chính địa phương của chế độ Sài Gòn gồm hai cấp căn bản: đô thị – tỉnh và xã, cùng hai cấp trung gian là quận và tổng.
Về địa giới hành chính, ngày 22-10-1956, chủ trương tách các tỉnh cũ thành nhiều tỉnh nhỏ, Ngô Đình Diệm ký Sắc lệnh số 143-NV phân chia miền Nam thành 23 đơn vị hành chính gồm: Đô thành Sài Gòn và 22 tỉnh. Về mặt quân sự, trong giai đoạn (1956-1960), miền Nam được phân chia làm 6 quân khu: Quân khu Thủ đô; Quân khu I gồm các tỉnh miền Đông Nam phần, trong đó có Bình Long và Phước Long; Quân khu II gồm 3 tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên và Quảng Nam; Quân khu III gồm 5 tỉnh: Pleiku, Kontum, Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên; Quân khu IV gồm 5 tỉnh: Buôn Mê Thuật, Di Linh, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận; Quân khu V gồm các tỉnh miền Tây Nam phần. Năm 1960, quân khu III giải tán và sáp nhập vào Quân khu IV.
Đơn vị hành chính chế độ Sài Gòn năm 1956
STT |
Tên cũ |
Tên mới |
Tên tỉnh lị |
A | Thủ Đô | ||
Sài Gòn – Chợ Lớn | Sài Gòn | ||
B | Các Tỉnh | ||
1 | Bà Rịa – Vũng Tàu ( Hoàng Sa) | Phước Tuy | Phước Lễ |
2 | Biên Hoà chia làm 4:
Biên Hoà Xuân Lộc Bà Rá Hớn Quản |
Biên Hoà | Biên Hoà |
3 | Long Khánh | Xuân Lộc | |
4 | Phước Long | Phước Bình | |
5 | Bình Long | An Lộc | |
6 | Tây Ninh | Tây Ninh | Tây Ninh |
7 | Chợ Lớn – Tân An | Long An | Tân An |
8 | Mộc Hoá | Kiến Tường | Mộc Hoá |
9 | Phong Thạnh | Kiến Phong | Cao Lãnh |
10 | Mỹ Tho – Gò Công | Định Tường | Mỹ Tho |
11 | Bến Tre | Kiến Hoà | Trúc Giang |
12 | Vĩnh Long – Sa Đéc | Vĩnh Long | Vĩnh Long |
13 | Trà Vinh | Vĩnh Bình | Phú Vinh |
14 | Long Xuyên – Châu Đốc | An Giang | Long Xuyên |
15 | Cần Thơ | Phong Dinh | Cần Thơ |
16 | Bạc Lêu – Sóc Trăng | Ba Xuyên | Khánh Hưng |
17 | Rạch Giá – Hà Tiên | Kiến Giang | Rạch Giá |
18 | Gia Định | Gia Định | Gia Định |
19 | Cà Mau | An Xuyên | Quảng Long |
20 | Thủ Dầu Một | Bình Dương | Phú Cường |
21 | 1 phần Đồng Nai thượng
1 phần Bình Thuận ( Hàm Tân – Tánh Linh) |
Bình Tuy | Hàm Tân |
22 | Côn Đảo | Côn Sơn |
Bảng đối chiếu đơn vị hành chính (1859-1956)([2])
LỤC TỈNH NAM KỲ (1836-1859) |
|||||
Gia Định |
Biên Hòa |
Định Tường |
Vĩnh Long |
An Giang |
Hà Tiên |
NAM KỲ THỜI PHÁP THUỘC (1859-1945) |
|||||
Gia Định
Chợ Lớn Tân An Tây Ninh Gò Công Tân Bình |
Biên Hòa
Bà Rịa Thủ Dầu Một Cap-Saint Jacques |
Mỹ Tho | Vĩnh Long
Bến Tre Trà Vinh |
Châu Đốc
Long Xuyên Sa Đéc Sốc Trăng Cần Thơ |
Hà Tiên
Rạch Giá Bặc Liêu
|
MIỀN NAM DƯỚI THỜI NGÔ ĐÌNH DIỆM |
|||||
Gia Định
Long An Tây Ninh Côn Sơn |
Biên Hòa
Long Khánh Phước Long Bình Long Phước Thành Phước Tuy Bình Dương Bình Tuy |
Định Tường
Kiến Tường |
Vĩnh Long
Vĩnh Bình Kiến Hòa |
An Giang
Ba Xuyên Phong Dinh Kiến Phong |
Kiên Giang
An Xuyên
|
Theo đó, tại địa bàn Bình Phước, chính quyền Sài Gòn thiết lập 2 tỉnh mới là Bình Long và Phước Long, trên cơ sở tách ra từ tỉnh Thủ Dầu Một. Cụ thể:
Tỉnh Bình Long gồm toàn bộ quận Hớn Quản; một phần quận Bù Đốp (5 xã đồng bào dân tộc thiểu số: Thạnh An, Phương Đông, Phước Hòa, Bình Thành và Prey-rung được sát nhập thành 3 xã mới: Lộc Hòa, Lộc An và Lộc Quan); một phần quận Bết Cát (2 xã Long Nguyên, An Long và một phần xã Lai Uyên), với diện tích 2.334km2 (rộng 37km, dài 80km). Về địa giới, phía Nam giáp Bình Dương; Bắc giáp tỉnh Kratíe (Campuchia); Đông giáp hai tỉnh Phước Long và Phước Thành; Tây giáp tỉnh Kompongcham (Campuchia) và Tây Ninh. Đến năm 1960, chính quyền Ngô Đình Diệm chính thức ấn định đơn vị hành chính tỉnh Bình Long gồm hai quận An Lộc và Lộc Ninh, với 31 xã.
Quận An Lộc (trước là quận Hớn Quản) quận lỵ đặt tại An Lộc, có 21 xã: 11 xã người Kinh: Tân Lập Phú, Tân Lợi, Tân Hưng, Tân Phước, Tân Khai, Thanh Bình, Thanh Lương, Minh Đức, Minh Hòa, Minh Thạnh và Hưng Long (sát nhập 2 xã Long Nguyên, An Long và một phần xã Lai Uyên); 10 xã đồng bào dân tộc: An Hòa, An Phú, An Lợi, An Mỹ, An Quý, An Thạnh, An Phát, An Khương và An Ninh.
Quận Lộc Ninh quận lỵ tại Lộc Ninh, có 10 xã: 4 xã người Kinh: Lộc Ninh, Lộc Tấn, Lộc Thạnh, Lộc Thiện; 6 xã đồng bào: Lộc Hiệp, Lộc Thành, Lộc Hòa, Lộc An, Lộc Khánh và Lộc Quan.
Tỉnh Phước Long gồm một phần phía bắc tỉnh Biên Hòa và một phần quận Bù Đốp, với hai đơn vị hành chính là quận châu thành Phước Bình (thời thuộc Pháp là quận Bà Rá hay còn gọi là Sông Bé) và quận Bố Đức (được đổi tên từ quận Bù Đốp). Tỉnh Phước Long giáp tỉnh Quảng Đức và Lâm Đồng về phía Bắc, giáp tỉnh Bình Long về phía Tây,
Năm 1957, chính quyền Diệm thành lập thêm quận Phước Hòa (vùng Bùjamap (Bù Gia Mập) và Bù Trăng Lơ). Ngày 21-3-1958 thành lập thêm quận Phước Tân. Đến ngày 1-4-1958, chính quyền Sài Gòn cho sát nhập một phần quận Phước Bình, một phần quận Phước Hòa vào quận Phước Tân và đổi tên thành quận Đức Phong với quận lỵ đặt tại xã Bù Đăng. Năm 1961, âm mưu phong tỏa hệ thống giao liên và hậu cần của cách mạng cho chiến khu D, chính quyền Diệm thành lập thêm quận Đôn Luân (nay là Đồng Xoài) từ xã Phước Thiện thuộc quận Phước Bình.
Đơn vị hành chính tỉnh Phước Long năm 1957[3]
Quận |
Quận lỵ |
Tổng |
Xã |
Phước Bình | Sơn Giang | Khun- narr. | Sơn Giang.
Phước Qủa |
Xer- nuk. | Dakkir. | ||
Khun- klenh | Bugno . | ||
Bù- yum. | Phú riềng. | ||
Bình Cách. | Phước Thiện | ||
Tân thuận | Tân Thuận | ||
Thuận lợi. | Thuận Lợi. | ||
Bù Đăng. | Bù Đăng | ||
Dak- cuorr | Bù- narr. | ||
Bùnard | Bù –tun. | ||
Bù R’Noun | N’ Drong. | ||
Bú Đốp | Phước Lục | Phước Lễ. | Phước Lục. |
Dag- huyt. | Bú –tom- yun. | ||
Bù- chirr. | Bù- yam- phút. | ||
Bú- yu | Bù- quak | ||
Phước Hòa
|
Bu- prang | Bu- prang
|
Bù- Jamap.
Bù- prang- sơ. Bù- diên- wwir. Bù Rnard Bù- barr. |
Bù R’lap | |||
Tổng cộng | 3 quận | 17 tổng | 21 xã |
Những năm sau này chính quyền Ngô Đình Diệm tiếp tục điều chỉnh địa giới hành chính các tỉnh và phân chia thành nhiều tỉnh nhỏ hơn nữa, đến năm 1963, Diệm chia miền Nam thành 44 đơn vị hành chính cấp tỉnh, trong đó có 4 đô thị là: Huế, Đà Lạt, Đà Nẵng và Sài Gòn. Đồng thời, từ năm 1961, Diệm liên tiếp ban hành các Sắc lệnh 98/QP ngày 3-4-1961; Sắc lệnh 213/QP ngày 26-11-1962 và Sắc lệnh số 132/QP ngày 25-10-1963, thay đổi việc phân chia lãnh thổ trên lĩnh vực quân sự thành các vùng chiến thuật. Theo đó, miền Nam được chia thành 4 vùng chiến thuật và một biệt khu: vùng I chiến thuật gồm 4 tỉnh giáp giới tuyến, vùng II chiến thuật gồm 8 tỉnh miền Trung, vùng III chiến thuật gồm 18 tỉnh từ Tuyên Đức đến Định Tường, vùng IV gồm 10 tỉnh từ Vĩnh Long đến An Xuyên và Biệt khu Thủ đô gồm Sài Gòn, Gia Định và Hậu Nghĩa. Theo đó, về mặt quân sự, hai tỉnh Bình Long và Phước Long trực thuộc vùng III chiến thuật, nhưng về địa giới hành chính thì cơ bản không có sự thay đổi.
Bảng thay đổi đơn vị hành chính của chế độ Sài Gòn (1957- 1964)
STT
|
TỈNH |
|||
Năm 1957 |
Năm 1961 |
Năm 1964 |
||
Đông Nam phần | Tây Nam phần | |||
1 | An Giang | An Giang | Biên Hòa | An Giang |
2 | An Xuyên | An Xuyên | Bình Dương | An Xuyên |
3 | Ba Xuyên | Ba Xuyên | Bình Long | Bạc Liêu |
4 | Biên Hoà | Biên Hoà | Bình Tuy | Ba Xuyên |
5 | Bình Dương | Bình Dương | Gia Định | Châu Đốc |
6 | Bình Long | Bình Long | Hậu Nghĩa | Chương Thiện |
7 | Bình Tuy | Bình Tuy | Long Khánh | Định Tường |
8 | Côn Sơn | Côn Sơn | Phước Long | Gò Công |
9 | Định Tường | Định Tường | Phước Tuy | Kiên Giang |
10 | Gia Định | Gia Định | Tây Ninh | Kiến Hoà |
11 | Kiên Giang
(Châu Thành Rạch Giá) |
Kiên Giang | Thị Xã Vũng Tàu | Kiến Phong |
12 | Kiến Hòa | Kiến Hoà | Kiến Tường | |
13 | Kiến Phong | Kiến Phong | Long An | |
14 | Kiến Tường | Định Tường | Phong Dinh | |
15 | Long An | Long An | Vĩnh Bình | |
16 | Long Khánh | Long Khánh | Vĩnh Long | |
17 | Phong Dinh | Phong Dinh | ||
18 | Phước Long | Phước Long | ||
19 | Phước Tuy | Phươc Tuy | ||
20 | Tây Ninh | Phước Thành | ||
21 | Vĩnh Bình | Tây Ninh | ||
22 | Vĩnh Long | Vĩnh Bình | ||
Cộng | 22 | 22 | 27 |
Song song với phân chia địa giới hành chính, Diệm từng bước xiết chặt chế độ kìm kẹp ở nông thôn miền Nam thông qua cải tổ bộ máy công quyền. Nhằm tăng hiệu quả hoạt động của bộ máy, chính quyền Diệm giảm bớt quyền lực ở các cấp trung gian, để tập trung vào hai cấp cơ bản: tỉnh và xã.
Đối với đô thị – tỉnh là đơn vị hành chánh cao nhất ở địa phương, chịu sự quản lý trực tiếp của tổng thống. Tỉnh trưởng do tổng thống bổ nhiệm, có đầy đủ quyền hành pháp và tư pháp, cũng như điều khiển quân đội trong phạm vi tỉnh. Quyền hạn và trách nhiệm của Tỉnh trưởng được quy định Thông tư số 115-a/TTP/VP ngày 24-10-1956, theo đó: Tỉnh trưởng có trách nhiệm thực thi luật lệ và điều hành tổng quát các công sở trong tỉnh; trách nhiệm về an ninh và trật tự công cộng trong địa hạt quản lý. Giúp việc cho tỉnh trưởng là các phó tỉnh trưởng. Bộ máy hành chính tỉnh đứng đầu là tòa hành chính tỉnh, với đầy đủ các cơ quan phụ trách về các lĩnh kinh tế – xã hội, an ninh – quốc phòng, gồm: Văn phòng, Ty Nội an và Quân vụ, Ty Hành chính, Ty Tài chính, Ty Kinh tế và xã hội. Đặc biệt, đối với những tỉnh trước đây là vùng hoạt động của cách mạng, chính quyền Diệm đưa sĩ quan quân đội về nắm quyền. Như tại Phước Long, Đỗ Văn Diễn – thiếu tá quân đội Sài Gòn, được điều về giữ chức tỉnh trưởng.
Từ sau cao trào Đồng Khởi của quân dân miền Nam (năm 1960), trước sức ép của dư luận, nhằm rêu rao tính chất dân chủ giả hiệu, Ngô Đình Diệm cho thiết lập Hội đồng hàng tỉnh, như một cơ cấu dân cử ở địa phương. Hội đồng hàng tỉnh có quyền thảo luận và biểu quyết những vấn đề liên quan đến quyền lợi của tỉnh về: Ngân sách; Thuế khoá; Kế hoạch xây dựng kinh tế, văn hoá, xã hội; Quản trị tài sản của tỉnh; Vay tiền của các cơ quan công hay tư; Kiện tụng để bênh vực các quyền lợi của tỉnh. Theo Sắc lệnh số 237-NV ngày 8-12-1961, Hội đồng hàng tỉnh gồm một số hội viên được bầu cử theo lối phổ thông đầu phiếu, trực tiếp và kín. Tuy nhiên trên thực tế, các Hội đồng hàng tỉnh đều được chính quyền Diệm chỉ định.
Ở hai cấp trung gian bên dưới, chính quyền Diệm thiết lập hai chức vụ theo thứ tự quận trưởng rồi đến chánh tổng. Quận trưởng và chánh tổng chỉ có nhiệm vụ liên lạc giữa xã với các cơ quan hành chính quận, tỉnh. Quận trưởng và chánh tổng có nhiệm vụ thực thi các biện pháp do cấp trên định sẵn.
Mặc dù là cấp thấp hơn nhưng bộ máy xã lại được chính quyền Diệm tổ chức rất chặt chẽ, với một cơ chế hoàn toàn mới. Hội đồng hương chính trước đây được thay bằng các đại diện xã và do tỉnh trực tiếp chỉ huy.
Ngày 28-6-1956, chính quyền Sài Gòn ban hành Thông tư số 802 quy định về tổ chức và chức năng của các Ủy ban hành chính Xã, theo đó: Ủy ban hành chính gồm có: 1 Chủ tịch kiêm việc hành chính; 1 Phó Chủ tịch kiêm việc tài chính, xã hội, kinh tế v.v… và một ủy viên cảnh sát [196]. Đối với xã lớn, đông dân, chính quyền Sài Gòn bố trí thêm 2 ủy viên, 1 phụ trách về tài chính, 1 phụ trách về hành chính. Những nhân viên phụ tá gọi là biện lại.
Bên dưới, chính quyền Diệm cho thiết lập bộ máy kìm kẹp đến từng gia đình với hệ thống “ngũ gia, liên bảo”. Theo đó, cứ 5 gia đình là một liên gia, 6 liên gia thành một phân ấp tự vệ, 6 phân ấp tự vệ thành ấp tự vệ và nhiều ấp kết hợp thành Tự vệ Hương thôn. Trong hệ thống liên gia, các gia đình được thanh lọc và phân loại thành 3 thành phần: một là, những gia đình tham gia hoặc có người thân tham gia kháng chiến; hai là gia đình có liên hệ với cách mạng và ba là những gia đình theo “hàng ngũ quốc gia”. Các gia đình thuộc loại thứ ba sẽ được cử làm liên gia trưởng, có nhiệm vụ theo dõi và báo cáo cho chính quyền Diệm về các gia đình còn lại.
Cùng với kìm kẹp, âm mưu tách cách mạng khỏi nhân dân, chính quyền Diệm tiến hành gom dân, lập khu dinh điền, biến nông thôn miền Nam Việt Nam thành những “trại giam” khổng lồ. Tại hai tỉnh Bình Long và Phước Long, Diệm gom hàng ngàn người ở miền Trung vào lập 30 địa điểm dinh điền.
Ở Phước Long, từ năm 1957 đến nam 1964, chính quyền Sài Gòn đã gom hơn 30.000 dân từ các tỉnh Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Trị,… đến lập 25 địa điểm dinh điền tại hai khu:
“Khu I: Phước Quả, Phước Tín, Bù Rạt, Đức Bổn, Hiếu Phong, Lễ An, Thuận Kiệm 1, An Lương, Phong Thuần, Thuận Kiệm 4, Vi Thiện, Vĩnh Thiện, Văn Đức, Trạch Thiện, Thuận Đáo, Rạch Rát;
Khu II: Nhơn Lý, Phú Văn, Đức Hạnh, Tư Hiền, Khiêm Chung, Tùng Thiện, Khắc Khoang, Hòa Kỉnh, Phú Nghĩa”[4].
Tại Bình Long, đến năm 1958, chính quyền Diệm cũng đã gom hơn 3.000 người để lập 5 địa điểm dinh điền, gồm: “Dinh điền Tích Thiện dân số 190 gia đình, 1.012 người; Dinh điền Hiếu Văn thành lập cuối năm 1958, dân số 101 gia đình, 515 người; Dinh điền Đông Hưu thành lập đầu năm 1960, dân số 105 gia đình, 559 người; Dinh điền Xóm Ruộng thành lập đầu năm 1960, dân số 153 gia đình, 714 người; Dinh điền Minh Thạnh thành lập cuối năm 1960, dân số 169 gia đình, 810 người”[5].
Trong các dinh điền, cùng với bộ máy kìm kẹp gồm ác ôn, tề điệp, bảo an, dân vệ thường xuyên tổ chức lùng sục, bắt bớ, chính quyền Sài Gòn kiểm soát gắt gao sinh hoạt, thực hiện khống chế và “cải tạo” tư tưởng quần chúng.
Trong khi đó, từ năm 1954-1956, nghiêm chỉnh thi hành các điều khoản của Hiệp định Genève về Việt Nam, phần lớn cán bộ, chiến sỹ cách mạng Bình Phước lên đường tập kết. Các cán bộ, đảng viên nòng cốt được phân công ở lại, được đặt dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Thủ Dầu Một và Tỉnh ủy Biên Hòa[6], cũng rút vào hoạt động bí mật, phát động quần chúng đấu tranh đòi thi hành Hiệp định, đòi thực hiện tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Nhưng dưới chính sách đàn áp, khủng bố dã man của Ngô Đình Diệm, cũng như nhiều địa phương khác ở miền Nam, lực lượng cách mạng Bình Phước bị tổn thất nặng nề. Hàng loạt cán bộ, đảng viên bị bắt, bị giết, số còn lại hoặc phải “điều lắng”, hoặc phải nằm im chờ thời.
Trong tình hình đó, cuối năm 1956, Xứ ủy Nam bộ ra nghị quyết về tình hình, nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới, trong đó nêu lên chủ trương khôi phục căn cứ địa, xây dựng lực lượng hỗ trợ quần chúng đấu tranh chính trị. Thực hiện sự chỉ đạo của Xứ ủy và tỉnh ủy, lực lượng cách mạng Bình Phước cùng với Liên tỉnh ủy miền Đông khôi phục các căn cứ địa trong kháng chiến chống Pháp, như Thuận Lợi, Truông Ba Trường,… thành địa bàn đứng chân của khu ủy và địa phương. Nhờ có địa bàn đứng chân và sự tăng cường cán bộ, đảng viên của Liên tỉnh ủy, cách mạng Bình Phước từng bước phát triển. Đến năm 1958, tại các địa bàn của Bình Phước, các tổ chức Đảng Cộng sản được cũng cố, lực lượng vũ trang tuyên truyền được xây dựng, tích cực phát động và hỗ trợ quần chúng đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ.
Trước sự lớn mạnh của phong trào, tháng 1 năm 1959, Hội nghị lần thứ 15 của Ban Chấp hành trung ương Đảng đề ra Nghị quyết xác định “con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân”. Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Nghị quyết 15, nhằm phù hợp với tình hình mới, giữa năm 1959, Liên tỉnh ủy miền Đông quyết định chia tỉnh Thủ Dầu Một và tỉnh Biên Hòa theo cơ cấu hành chính của chính quyền Sài Gòn. Tháng 2-1960, hưởng ứng phong trào Đồng Khởi ở Bến Tre, các tổ chức Đảng ở Bình Phước lãnh đạo lực lượng vũ trang, phát động quần chúng nổi dậy đánh địch, bộ máy kìm kẹp của chính quyền Sài Gòn ở cấp cơ sở bị uy hiếp mạnh. Qua cao trào Đồng Khởi, cách mạng Bình Phước ngày càng lớn mạnh về lực lượng cũng như về chất lượng. Đến cuối năm 1960, tổ chức Đảng cơ bản được kiện toàn với sự hình thành hai tỉnh ủy Bình Long và Phước Long, tiếp tục lãnh đạo nhân dân giành được nhiều thắng lợi quan trọng.
Về phía chính quyền Sài Gòn, năm 1963, trước phát triển mạnh mẽ của phong trào cánh mạng, Mỹ buộc phải tiến hành thay “ngựa” giữa dòng. Ngày 3-11-1963, dưới sự hậu thuẫn của CIA – Mỹ, Dương Văn Minh đứng đầu nhóm tướng lãnh Sài Gòn làm cuộc đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm, đặt dấu chấm hết cho nền Đệ nhất Cộnh hoà ở miền Nam Việt Nam. Và từ năm 1963 – 1965, chính thể cộng hoà ở miền Nam Việt Nam rơi vào cuộc khủng hoảng triền miên với đảo chánh nối tiếp đảo chánh. Do sự hỗn loạn của chính trường miền Nam, nên giai đoạn 1963-1964, đơn vị hành chính của chế độ Sài Gòn không có sự thay đổi lớn. Ngược lại, phong trào cách mạng Bình Phước ngày càng lớn mạnh. Ở nhiều nơi trong tỉnh, lực lượng cách mạng đã làm chủ được xóm, ấp. Như tại Phước Long, theo báo cáo của chính quyền Sài Gòn, tính đến năm 1967, “trong thực tế, chỉ còn 6 xã thực sự hoạt động: xã Sơn Giang, xã Phước Quả, xã Phước Lục, xã Bù Đăng, xã Vĩnh Thiện và xã Phước Thiện”[7].
Trước tình hình đó, tháng 8-1964, Mỹ dựng lên sự kiện “Vịnh Bắc bộ”, lấy đó làm lý do đưa quân viễn chinh Mỹ vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam Việt Nam. Năm 1965, ngay khi vào miền Nam Việt Nam, quân viễn chinh Mỹ được điều tới địa bàn Bình Phước, đóng đan xen, chốt giữ các vị trí xung yếu, hình thành các căn cứ quân sự lớn như ở An Lộc, hay Bàu Bàng,… Đồng thời với việc được quân vào miền Nam Việt Nam, Mỹ triển khai chiến lược chiến tranh cục bộ bằng kế hoạch hai gọng kìm “tìm diệt” và “bình định”. Thực hiện kế hoạch bình định, từ năm 1964, song song với các cuộc hành quân lập ấp “tân sinh”, ấp “đời mới”, Mỹ – chính quyền Sài Gòn tiến hành cải tổ nền hành chính ở cấp cơ sở. Theo đó, các khu dinh điền, ấp chiến lược lập dưới thời Diệm được “địa phương hóa” thành các xã, ấp với bộ máy kìm kẹp hoàn chỉnh. Đối với bộ máy hành chính xã, ấp chính quyền Sài Gòn cũng thực hiện một số cải cách dân chủ, tổ chức bầu cử Hội đồng nhân dân xã, ấp, củng cố Ủy ban hành chính xã và Ban trị sự ấp.
Năm 1967, sau khi cơ bản hoàn thành củng cố bộ máy chính quyền, Mỹ đưa Nguyễn Văn Thiệu lên làm tổng thống, thiết lập nền đệ nhị cộng hòa ở miền Nam Việt Nam. Nhằm ổn định tình hình, chính quyền Thiệu răng tăng quân sự hóa bộ máy chính quyền, đưa sĩ quan về nắm quyền từ cấp quận. Đồng thời, về mặt quân sự, chính quyền Thiệu thực hiện phân cấp chặt chẽ, dưới 4 vùng chiến thuật và 1 biệt khu thủ đô, miền Nam Việt Nam được chia thành các cấp nhỏ hơn, theo thứ tự: khu chiến thuật – tiểu khu (cấp tỉnh), đặc khu – chi khu (cấp quận), yếu khu. Theo đó, địa bàn Bình Phước được chia thành Tiểu khu Bình Long và Tiểu khu Phước Long, đặt trực thuộc Khu chiến thuật 32, Vùng 3 chiến thuật.
Về phía cách mạng, trong mùa khô 1966-1967, nhằm phù hợp với thực tiễn chỉ đạo chiến trường, tập trung phản công lại các cuộc hành quân “tìm diệt” và kế hoạch bình định nông thôn của Mỹ – chính quyền Sài Gòn, Trung ương Cục miền Nam tiến hành tổ chức lại chiến trường, chia miền Nam thành 10 Quân khu. Địa bàn Bình Phước gồm hai tỉnh Bình Long và Phước Long, trực thuộc sự chỉ đạo của Quân khu T10. Cuối năm 1967, trên cơ sở đánh bại các cuộc hành quân “tìm diệt” và “bình định” của Mỹ – chính quyền Sài Gòn trong hai mùa khô 1965-1966 và 1966-1967, trung ương Đảng quyết định thực hiện tổng công kích – tổng khởi nghĩa, đưa cách mạng miền Nam tiến lên bước phát triển mới. Trong khí thế khẩn trương của toàn Miền, quân dân Bình Phước vừa tham gia vận chuyển vũ khí, đạn dược phục vụ lực lượng chủ lực, vừa tích cực chuẩn bị lực lượng về mọi mặt cho cuộc tổng tiến công ở địa phương.
Đêm 30-1-1968, hòa cùng tiếng súng trên toàn miền Nam, quân dân Bình Phước đồng loạt tiến công, đánh chiếm các cơ sở quan trọng của chính quyền Sài Gòn tại Bình Long và Phước Long, mở màn cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, gây chấn động nước Mỹ. Ngày 31-3-1968, choáng váng trước cuộc Tổng tiến công của Quân giải phóng miền Nam, Tổng thống Hoa Kỳ Johnson buộc phải tuyên bố ngồi vào bàn đàm phán về Việt Nam tại Paris, tạo bước phát triển mới cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam.
Tuy nhiên, vẫn chưa chấp nhận thất bại, tháng 6-1969, thay Johnson lên làm tổng thống Mỹ, Nixon đề ra chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh, kết hợp giữa bình định miền Nam với tăng cường quy mô và cường lực chiến tranh đánh phá miền Bắc và mở rộng chiến tranh qua Lào và Campuchia. Trong khi đó, về phía cách mạng, sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968, hầu hết cơ sở bị lộ. Nên trong giai đoạn đầu Mỹ – chính quyền Sài Gòn thực hiện chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh, lực lượng cách mạng gặp rất nhiều khó khăn, tổn thất. Cũng như toàn Miền, phần lớn cán bộ, chiến sĩ cách mạng Bình Phước bị bật khỏi địa bàn đứng chân, phải rút về vùng rừng núi giáp biên giới Campuchia.
Trước tình hình đó, nhằm thống nhất sự lãnh đạo trên địa bàn nối liền từ vùng rừng núi với vùng đông bắc Sài Gòn, ngày 30-1-1971, Trung ương cục miền Nam quyết định thành lập phân khu Bình Phước, bao gồm Bình Long, Phước Long và huyện Kiến Đức của tỉnh Quảng Đức. Sau chiến dịch tổng tiến công xuân hè năm 1972, huyện Lộc Ninh được giải phóng trở thành thủ phủ của Chính phủ Cách mạng cộng hòa miền Nam Việt Nam, Trung ương Cục quyết định giải thể phân khu Bình Phước, tách Kiên Đức về Khu 6, để thành lập tỉnh Bình Phước. Tỉnh ủy Bình Phước đặt dưới sự chỉ đạo của Khu ủy T1. Đến đây, sau gần 300 năm kể từ khi chúa Nguyễn thiết lập hệ thống cái trị ở miền biên viễn phía Tây Đại Việt, Bình Phước lần đầu tiên xuất hiện trên bản đồ Việt Nam với danh nghĩa cấp tỉnh.
Thất bại trong chiến dịch tổng tiến công xuân-hè năm 1972 của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, ngày 27-1-1973, Mỹ buộc phải ký kết Hiệp định Paris về Việt Nam, rút quân viễn chinh về nước, tạo bước ngoặt lớn cho cách mạng Việt Nam.
Tuy nhiên, chưa từ bỏ âm mưu áp đặt chế độ thực dân mới Mỹ ở miền Nam Việt Nam, trong hai năm 1973-1974, Mỹ tiếp tục viện trợ và hậu thuẫn cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu tiến hành phá hoại Hiệp định Paris. Trước thực trạng đó, tháng 10-1974, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên bố chấm dứt thương thuyết về ngừng bắn với chính quyền Sài Gòn. Tháng 12-1974, Bộ Tư lệnh Miền phát lệnh cho toàn quân, toàn dân miền Nam tiến lên trừng trị Mỹ – Thiệu ngoan cố, hiếu chiến, giành quyền làm chủ về tay nhân dân. Thực hiện mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh Miền, Tỉnh ủy Bình Phước lãnh đạo quân dân đẩy mạnh tiến công, tiêu diệt địch. Cuối năm 1974, quân dân Bình Phước đã giải phóng hoàn toàn các cứ điểm trên đường 14 (Đồng Xoài, Bù Đăng). Ngày 6-1-1975, được sự chi viện ở trên, quân dân Bình Phước tấn công giải phóng hoàn toàn Phước Long. Ngày 2-4-1975, với chiến thắng Chơn Thành, tỉnh Bình Phước hoàn toàn giải phóng. Tháng 4-1975, trong khí thế thần tốc, cả nước tiến lên giải phóng miền Nam, quân dân Bình Phước cùng đại quân tiến về Sài Gòn. 11 giờ ngày 30 tháng 4 năm 1975, xe tăng quân giải phóng húc đổ cổng sắt dinh Độc Lập – cơ quan đầu não của chính quyền Sài Gòn, đánh dấu thắng lợi vĩ đại cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
[1] Sắc lệnh số 144a/TTP ngày 23/10/1956 sửa đổi danh hiệu Nam Việt, Trung Việt, Bắc Việt ra danh hiệu Nam phần, Trung phần và Bắc phần. Công báo Việt Nam 1956, tr.2715; Sắc lệnh số 147a ngày 24/10/1956 ấn địn chia Trung phần làm hai miền: Trung Nguyên và Cao Nguyên. Công báo Việt Nam 1956, tr.2716.
[2] Đào Văn Hội, Lịch trình hành chánh Nam phần, 1961, vn.1528, TT LTQG II, tr.38
[3] Công báo Việt Nam cộng hòa năm 1958, TTLTQG II, ký hiệu J 386.
[4] VNCH, Địa phương chí tỉnh Phước Long năm 1967.
[5] Tòa đại biểu chính phủ tại miền Đông Nam phần, Miền Đông Nam phần, Sài Gòn 1960.
[6] Vùng Bình Long, Lộc Ninh và một phần Phước Long chịu sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Thủ Dầu Một; vùng đồng bào các dân tộc thiểu số ở Phước Long chịu sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Biên Hòa.
[7] VNCH, Địa phương chí tỉnh Phước Long năm 1967.
Tin cùng chuyên mục:
Khó khăn và giải pháp khắc phục trong triển khai nhiệm vụ nộp lưu tài liệu lưu trữ số
Thực trạng triển khai công tác lưu trữ điện tử của Ủy ban Dân tộc
Văn học Sài Gòn 1954-1975 những chuyện bên lề
Sài Gòn 1698-1998 Kiến trúc quy hoạch