Lược sử triều đại Nguyễn (1802-1945)

Vương triều Nguyễn (1802-1945) được tính từ vua Gia Long – người sáng lập nên triều Nguyễn, đến vua Bảo Đại – vị hoàng đế cuối cùng ở Việt Nam. Tuy nhiên, khi nói đến vương triều Nguyễn, người ta không thể không nói đến 9 đời chúa Nguyễn – tổ tiên của các vị vua Nguyễn sau này, và cũng là những người đã có công khai phá, mở mang bờ cõi về phương Nam.

Tháng 10 năm Mậu Ngọ (1558), vị chúa đầu tiên – Đoan quận công Nguyễn Hoàng vào trấn thủ đất Thuận Hóa, mở ra một trang sử mới cho vùng đất này. Cùng với sự phát triển và củng cố quyền lực của họ Nguyễn ở Đàng Trong, mâu thuẫn với họ Trịnh ở Đàng Ngoài cũng ngày càng gay gắt, gây nên cuộc chiến tranh chia cắt đất nước trong suốt hơn 200 năm. Bên cạnh đó, công cuộc Nam tiến để mở rộng bờ cõi cũng được đẩy mạnh. Đến năm 1757, các chúa Nguyễn đã xác lập chủ quyền trên toàn bộ vùng đất Nam bộ như chúng ta thấy ngày nay[1].

Cùng với quá trình xây dựng và phát triển chính quyền xứ Đàng Trong, các chúa Nguyễn đã nhiều lần dời lập thủ phủ từ Ái Tử (1558-1570) đến Trà Bát (1570-1600), Dinh Cát (1600-1626), Phước Yên (1626-1636), Kim Long (1636-1687), Phú Xuân (1687-1712), Bác Vọng (1712-1738) để rồi trở về dừng chân ở Phú Xuân một lần nữa (1738-1775)[2]. Năm 1775, dưới nhiều tác động của bối cảnh chính trị-xã hội, vị chúa Nguyễn cuối cùng đã để mất Phú Xuân vào tay quân Trịnh, tiếp đó là sự sụp đổ hoàn toàn trước sức mạnh của quân Tây Sơn cho đến khi một hậu duệ của họ Nguyễn khôi phục lại cơ đồ, dựng nên vương triều Nguyễn sau này.

Trước đó, ngay từ năm 1788, lợi dụng sự bất hòa trong anh em Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã bí mật đưa lực lượng trở lại Gia Định. Thất vọng trước sự bất lực của quân Xiêm, Nguyễn Ánh tăng cường tìm kiếm sự giúp đỡ của người Pháp. Dựa vào sự giúp đỡ của Pháp và các thế lực đại địa chủ ở Gia Định, lực lượng của Nguyễn Ánh ngày càng mạnh lên. Năm 1793, Nguyễn Ánh tấn công ra Quy Nhơn. Lực lượng của Nguyễn Nhạc bị tổn thất nặng nề, buộc phải cầu cứu quân Phú Xuân. Quân Quang Toản vào giải cứu, nhưng sau đó lại chiếm lấy Quy Nhơn khiến Nguyễn Nhạc uất ức mà chết, nội bộ nhà Tây Sơn bị rạn nứt nghiêm trọng. Lực lượng Tây Sơn ngày càng rệu rã. Năm 1801, lực lượng nòng cốt của thủy quân Tây Sơn bị đánh ở cửa Thị Nại. Tháng 6 năm đó, Nguyễn Ánh chiếm được thành Phú Xuân, quân Tây Sơn tan vỡ, Quang Toản phải bỏ chạy ra Thăng Long. Tháng 7 – 1802, thành Thăng Long rơi vào tay Nguyễn Ánh.

Năm 1802, sau khi đánh bại quân Tây Sơn, Nguyễn Ánh – hậu duệ của các chúa Nguyễn đã thâu tóm giang sơn về một mối, lập nên vương triều Nguyễn, lấy niên hiệu là Gia Long. Phú Xuân trở thành kinh đô của cả nước trong suốt 143 năm tồn tại của triều đại này.

Kế tục sự nghiệp của ông, lần lượt 12 vị vua Nguyễn sau đó đã xây dựng Phú Xuân thành trung tâm chính trị, văn hóa, quyền lực của một nhà nước Việt Nam thống nhất từ Bắc đến Nam, phản ánh bước phát triển cao hơn của lãnh thổ quốc gia, quy tụ được các giá trị văn hóa của cả lãnh thổ rộng lớn.

Là triều đại phong kiến cuối cùng của lịch sử phong kiến Việt Nam. Có thể nói, trong các triều đại thì triều Nguyễn là triều đại đã gây ra nhiều tranh luận nhất trong giới sử học về cách đánh giá triều đại này. Nếu như hầu hết các nhà sử học đều công nhận và đánh giá công lao của các triều đại phong kiến Lý, Trần, Lê sơ thì riêng đối với triều Nguyễn, những nhận định lại không đồng nhất, thậm chí trong cùng một vấn đề thì lại có sự đối lập hoàn toàn nhau giữa những người tham gia công tác nghiên cứu sử học. Tuy nhiên, cũng có một sự thật là theo thời gian, với độ lùi của tâm lý nhận thức của nhiều người, xu hướng giảm nhẹ sự bất đồng để xích lại gần nhau trong cách đánh giá triều Nguyễn cũng diễn ra đáng kể.

Mặc dù còn nhiều ý kiến khác nhau khi đánh gia về triều Nguyễn, tuy nhiên có một thực tế cần nhìn nhận đó là trong quá trình tồn tại, vương triều Nguyễn đã để lại di sản lớn lao nhất là một giang sơn đất nước trải rộng trên lãnh thổ thống nhất từ bắc chí nam gần như tương ứng với lãnh thổ Việt Nam hiện đại, bao gồm cả đất liền và hải đảo trên Biển Đông. Lãnh thổ đó là sản phẩm của cả tiến trình lịch sử bắt đầu từ lúc hình thành Nhà nước đầu tiên, nước Văn Lang-Âu Lạc thời Hùng Vương, An Dương Vương, rồi tiếp tục với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước qua các thời kỳ lịch sử cho đến giữa thế kỷ XVI đã mở rộng vào đến vùng Thuận Quảng. Thời kỳ các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn kế thừa thành quả đó và mở mang vào đến tận đồng bằng sông Cửu Long.

Trên lãnh thổ đó là một di sản văn hóa đồ sộ bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể. Di sản đó một phần đang hiện hữu trên đất nước Việt Nam với những di tích kiến trúc, thành lũy, lăng mộ… và tất cả đã hòa đồng với toàn bộ di sản dân tộc cùng đồng hành với nhân dân, với dân tộc trong cuộc sống hôm nay và mãi mãi về sau, góp phần tạo nên bản sắc và bản lĩnh dân tộc, sức sống và sự phát triển bền vững của đất nước.

Triều Nguyễn cũng đã để lại một di sản cực kỳ đồ sộ bao gồm một khối lượng lớn các bộ quốc sử, địa chí, hội điển, văn bia, châu bản, địa bạ, gia phả… Cống hiến to lớn nhất của thời Nguyễn nói chung chính là những thành tựu văn hóa mang giá trị nổi bật toàn cầu với những di sản văn hóa đã được UNESCO công nhận.

Trong di sản văn hóa vật thể, có thể nói rất nhiều đình, đền, miếu, nhà thờ họ trong tín ngưỡng dân gian, chùa tháp của Phật giáo, đạo quán của Đạo giáo…, còn lại đến nay phần lớn đều được xây dựng hay ít ra là trung tu trong thời nhà Nguyễn. Tất cả di sản này rải ra trên phạm vi cả nước từ bắc chí nam.

Về di sản chữ viết, triều Nguyễn để lại một kho tàng rất lớn với những bộ chính sử, những công trình biên khảo trên nhiều lĩnh vực, những sáng tác thơ văn của nhiều nhà văn hóa lớn, những tư liệu về Châu bản triều nguyễn, văn bia, địa bạ, gia phả, hương ước, những sắc phong, câu đối trong các kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng, những văn khắc trên hang núi, vách đá… Nổi bật khối tài liệu Mộc bản với nội dung rất phong phú, đa dạng, phản ánh mọi mặt của xã hội Việt Nam dưới triều Nguyễn như: lịch sử, địa lý, chính trị – xã hội, quân sự, pháp chế, văn hóa giáo dục, tôn giáo – tư tưởng – triết học, văn thơ, ngôn ngữ – văn tự. Giá trị của khối tài liệu mộc bản này đã được thừa nhận khi năm 2007, thông qua Ủy ban quốc gia UNESCO Việt Nam, Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước đã trình UNESCO hồ sơ “Mộc bản triều Nguyễn” để đăng ký di sản tư liệu thế giới thuộc Chương trình Ký ức thế giới của UNESCO. Sau nhiều phiên họp thẩm định, đánh giá, ngày 30-7-2009, hồ sơ “Mộc bản triều Nguyễn” đã được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thuộc Chương trình Ký ức thế giới và chính thức được công bố trong danh sách 35 Di sản tư liệu thế giới được UNESCO công nhận năm 2009 trên trang tin điện tử của Chương trình Ký ức thế giới (http://portal.unesco.org). Đây là tài liệu đầu tiên của Việt Nam được UNESCO công nhận là “Di sản tư liệu thế giới”.

Có thể nói vương triều Nguyễn đã đi vào lịch sử, nhưng di sản văn hóa mà thời kỳ lịch sử đó đã tạo dựng nên, kết tinh những giá trị lịch sử và văn hóa của dân tộc, thì mãi mãi trường tồn cùng non sông đất nước. Đó là bộ phận quan trọng của di sản văn hóa dân tộc luôn luôn giữ vai trò động lực tinh thần nội tại của công cuộc phục hưng dân tộc, của sự phát triển bền vững của đất nước, nhất là trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập của đất nước hiện nay.

Minh Đức

[1] Phan Khoang, Việt sử xứ Đàng Trong 1558-1777, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1967, tr.321

[2] Chu Thiên, Chính sách khẩn hoang của triều Nguyễn, Nghiên cứu Lịch sử, số 56, năm 1963.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *