Mặt trận hướng Đông trong Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 – qua tài liệu của chính quyền Sài Gòn

Bước cuối tháng 3-1975, tình hình chiến sự ở miền Nam Việt Nam trở nên hết sức sôi động với cán cân nghiêng về Quân Giải phóng. Chính quyền Sài Gòn lâm vào tình thế hết sức bi đát. Ngày 31-3-1975, Hoàng Đức Nhã cố vấn riêng của Nguyễn Văn Thiệu, trước những thất bại liên tiếp của chính quyền và quân đội Sài Gòn trong cuộc đối chiến với Quân giải phóng miền Nam Việt đã trình Thiệu “Một đề nghị để giải quyết tình trạng hiện nay” trong đó nêu rõ: “Tâm trạng dân chúng bị giao động mạnh trong một hoàn cảnh mà đa số cho là “đất nước không còn chính phủ nữa”… Chúng ta lại chứng kiến hiện tượng tạm gọi là sự phá vỡ của “huyền thoại” của những vị tướng lãnh “chì”. Nỗ lực chiến tranh chính trị hầu như tê liệt và sẽ gặp nhiều khó khăn với thời gian.

Một điểm đáng ghi nhận trong những cuộc biến động vừa qua là guồng máy cai trị của chúng ta từ trung ương đến địa phương không còn vững chắc. Tại các nơi có biến động thì các cán bộ quốc gia đều” biến mất” và do đó dân chúng sợ hãi phải đi theo”.

Chính trong thời điểm đó, phái đoàn Quốc hội Mỹ – những người vừa trở về từ Sài Gòn, đã “đánh” một đòn nặng nề vào sinh mệnh chính trị của Nguyễn Văn Thiệu và những cam kết của Tổng thống Pho đối với miền Nam Việt Nam. Trong một cuộc họp báo, các thành viên phái đoàn lên tiếng phê bình chính sách của Tổng thống Pho tại Nam Việt Nam là sai lầm và không úp mở khẳng định một giải pháp thương lượng chỉ có thể có nếu Tổng thống chính quyền Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu ra đi.

Ở Nhà Trắng, Tổng thống Ford bàng hoàng trước sự thất thủ mau lẹ của quân đội Sài Gòn, buộc phải phái tướng Weyand – Tổng Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ, trực tiếp thị sát chiến trường miền Nam Việt Nam. Đến Sài Gòn tối ngày 25-03-1975, ngay ngày hôm sau, Weyand lập tức có cuộc gặp gỡ với các quan chức cao cấp của Hoa Kỳ và giới lãnh đạo chính quyền Sài Gòn. Sáng 26-03-1975, gặp tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, chiều cùng ngày họp với Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ và Trần Thiện Khiêm – thủ tướng chính quyền Sài Gòn. Những ngày kế tiếp, Weyand gặp gỡ các tướng lĩnh chỉ huy chiến trường của chính quyền Sài Gòn, gồm Nguyễn Văn Toàn – Trung tướng, Tư lệnh Quân đoàn III, Phạm Văn Phú – Thiếu tướng, Tư lệnh Quân đoàn II, Nguyễn Khoa Nam – Thiếu tướng, Tư lệnh Quân đoàn IV, nhằm trực tiếp nắm tình hình chiến sự.

Ngày 2-4-1975, sau khi hoàn thành chuyến thị sát, tướng Weyand tổ chức cuộc họp hỗn hợp Mỹ – chính quyền Thiệu ngay tại Sài Gòn nhằm thống nhất kế hoạch phòng thủ. Tham gia cuộc họp về phía Mỹ, ngoài tướng Weyand còn có Đại sứ G. Martin, Eric Von Marbob, tướng Homer D. Smith, George Carver và Theodore Shackley. Phía chính quyền Sài Gòn có Nguyễn Văn Thiệu – Tổng thống; Phó Tổng thống; Trần Thiện Khiêm – Thủ tướng Chính phủ; Cao Văn Viên – đại tướng, Tổng Tham mưu trưởng quân đội Sài Gòn; Tổng trưởng Kế hoạch; Trung tướng phụ tá đặc biệt về quân sự và an ninh tại Phủ Tổng thống; Trung tướng Tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham mưu kiêm Tổng Cục trưởng Tổng cục Tiếp vận[1]. Kết thúc cuộc họp, chính quyền Sài Gòn bắt tay ngay vào thiết lập tuyến phòng thủ kéo dài từ Phan Rang, qua Xuân Lộc đến Tây Ninh với hai “tử điểm” là Phan Rang và Xuân Lộc.

Cùng ngày, tại Mỹ, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Schlesinger, trong một cuộc họp báo cũng công bố kế hoạch thiết lập phòng tuyến cố thủ của Mỹ – Thiệu tại miền Nam Việt Nam và cho đó là một cuộc “trắc nghiệm mới[2] với thời hạn trong vòng 30 ngày. Nhật báo Mỹ, International Herald Tribune đưa tin: “Các tin từ Sài Gòn cho biết, chính phủ Việt Nam cộng hòa có ý định thiết lập một vành đai phòng thủ cách Sài Gòn 15 dặm do 20.000 binh sĩ canh giữ”[3].

Ở Sài Gòn, tối ngày 2-4-1975, Cao Văn Viên – Đại tướng Tổng Tham mưu trưởng ra Nhật lệnh kêu gọi quân đội Sài Gòn cố thủ chiến tuyến.

Ngày 04-4-1975, nhằm củng cố tinh thần binh lính, Nguyễn Văn Thiệu đã lớn tiếng đổ lỗi sự thất thủ triền miên vừa qua là do Mỹ không chịu viện trợ, chứ không phải sự yếu kém của quân đội Sài Gòn. Thiệu không ngại ngần nói rằng: “phân nửa viện trợ thì quân đội Việt Nam cộng hoà chỉ có thể giữ phân nửa lãnh thổ mà thôi”[4].

Ngày 6-4-1975, sau thời gian gấp rút chuẩn bị dưới sự chỉ đạo và hỗ trợ của Hoa Kỳ, phòng tuyến cố thủ Phan Rang của chính quyền Sài Gòn được hình thành. Ngày 8-4-1975, với vị trí là cụm phòng thủ trung tâm trong số ba cụm Tây Ninh – Xuân Lộc – Phan Rang, chính quyền Sài Gòn bố trí tại Xuân Lộc binh lực mạnh nhất có trong tay. Với việc tập trung binh lực lớn quân đội Sài Gòn, người Mỹ đặt những hy vọng cuối cùng nhằm tìm kiếm giải pháp rút ra khỏi cuộc chiến trên thế mạnh vào phòng tuyến cố thủ ở Phan Rang, Xuân Lộc.

Ngày 9-4-1975, Quân giải phóng tiến đánh Xuân Lộc. Ngày 14-4-1975, trong khi chiến trường Xuân Lộc đang diễn ra giằng co, Quân giải phóng đột phá tuyến phòng thủ Du Long, chính thức mở trận tiến công vào phòng tuyến Phan Rang. Chỉ sau hai ngày tiến công, Quân giải phóng đã phá tan phòng tuyến Phan Rang. 9 giờ 30 phút sáng ngày 16-4-1975, Quân giải phóng chiếm dinh tỉnh trưởng, bắt sống Nguyễn Văn Tư – Đại tá, Tỉnh trưởng Ninh Thuận; 10 giờ bắt sống Nguyễn Vĩnh Nghi – Trung tướng, Phó Tư lệnh Quân đoàn 3 và Phạm Ngọc Sang – Chuẩn tướng, chỉ huy Sư đoàn 6 không quân chính quyền Sài Gòn. Chính thức đập tan “lá chắn Phan Rang”, làm tiêu tan mọi hy vọng của Mỹ – Thiệu.

Trước khi phòng tuyến Phan Rang bị vỡ, ngày 14-4-1975, chính quyền Sài Gòn quyết định tổ chức hệ thống cố thủ ngay trong thủ đô. Một mặt, tiếp tục tổ chức đợt hai của chiến dịch Lê Văn Duyệt đánh vào các cơ sở của Quân Giải phóng tại Sài Gòn – Gia Định và vùng phụ cận. Đồng thời, cải tổ Biệt khu Thủ đô thành 5 liên khu, mỗi liên khu có một bộ chỉ huy chiến thuật do một đại tá chỉ huy. Bên dưới hình thành hệ thống cố thủ đến tận khóm, ấp với các khóm chiến đấu, khu phố chiến đấu, v.v., tạo thành hệ thống cố thủ liên hoàn. Tại Dinh Độc Lập, dưới áp lực của Mỹ và các phe nhóm đối lập, đồng thời nhằm củng cố thêm tinh thần chiến đấu cho quân đội Sài Gòn, Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cải tổ nội các. Ngày 15-4-1975, nội các mới do Nguyễn Bá Cẩn làm thủ tướng, được gọi là Nội các chiến đấu chính thức trình diện Tổng thống chính quyền Sài Gòn, với lời bảo đảm sẽ sát cánh cùng Thiệu tử thủ tới cùng, song cũng không thể làm gì hơn. Nguy cơ Quân Giải phóng tấn công Sài Gòn ngày một tới gần.

Chưa chịu thất bại, chính quyền Ford sử dụng biện pháp răn đe, hy vọng làm chậm bước tiến quân của Quân Giải phóng. Ngày 18-4-1975, Toà đại sứ Hoa Kỳ tại Singapo tiết lộ thông tin: Hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ Hancock đêm thứ sáu đã rời khỏi hải phận Xingapo, để đến một nơi chưa được tiết lộ[5], khiến người ta suy đoán hàng không mẫu hạm này đi đến hải phận Việt Nam. Qua ngày 20-4-1975, Bộ Quốc phòng Mỹ chính thức loan báo việc di chuyển không phải của một mà là 5 hàng không mẫu hạm. Thông báo được “Reuter”[6] tường thuật:

Năm hàng không mẫu hạm Mỹ lên đường tới các địa điểm không được tiết lộ trong vùng tây bộ Thái Bình Dương hôm nay.

Bộ Quốc phòng Mỹ loan báo là hàng không mẫu hạm “Midway” và mẫu hạm trực thăng “Ôkinaoa” đã rời vịnh Subic ở Philíppin. Hàng không mẫu hạm “Hancock” đã rời Xingapo tối qua và hai hàng không mẫu hạm khác là “Enterprise” và “Coral Sea” cũng đã ra khơi trước đó”[7].

Nhưng tình thế ngày càng bi đát, ngày 21-4-1975, Quân Giải phóng đẩy mạnh tiến công, quyết tâm vô hiệu “cửa thép” Xuân Lộc. Sư đoàn bộ binh quân đội Sài Gòn cố thủ Xuân Lộc bị vây hãm không đường rút lui. Để cứu nguy, chính quyền Sài Gòn quyết định sử dụng vũ khí “cấm” – bom CPU. Báo cáo đặc biệt số 426, ngày 21-4-1975của chính quyền Sài Gòn ghi rõ: “Ngày 21-4-1975, Sư đoàn bộ binh bị vây hãm không thể rút được. Ta sử dụng 5 phi cơ C130 chở mỗi phi cơ 24 trái bom CPU.55 thả trên nơi địch quân đóng”[8]. Che dấu sự kiện này, ngày 23-4-1975, “Ngũ giác đài cải chính tin Sài Gòn dùng bom CPU.55”[9] bằng việc đưa ra một bản tin mang tính “hoài nghi”: “có lẽ Sài Gòn đã dùng bom Napan loại đặc biệt”[10]. Tuy nhiên, trước sự phản ứng mạnh mẽ của dự luận thế giới đối với sự kiện tàn khốc này, ngày 24-4-1975, một viên tướng Mỹ đã phải thừa nhận quân đội Sài Gòn sử dụng bom CPU.55. Nhưng phủ nhận sự dính líu của Mỹ, ông ta nói: “lúc quân đội Hoa Kỳ rút lui khỏi Việt Nam, có để lại một số bom CPU.55 không quân-500 trái. Loại bom này Hoa Kỳ chỉ sử dụng để khai quang một khu vực đủ cho một trực thăng đáp xuống, trong một đường kính 180m. Tất có thể một số bom này còn hiệu lực sử dụng được”[11].

Việc Xuân Lộc thất thủ, buộc Tổng thống Ford phải đi đến quyết định phải có sự thay đổi ở miền Nam Việt Nam, nhằm “níu kéo” những khả năng cuối cùng để có thể rút ra khỏi cuộc chiến tranh Việt Nam. Ngày 21-4-1975, Nguyễn Văn Thiệu phải từ chức. Buổi tối cùng ngày, cay đắng với quyết định của tổng phống Ford, Thiệu lớn tiếng “chửi rủa” Mỹ:

Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đã tuyên bố từ chức và theo Điều 55 Hiến pháp VNCH, Phó Tổng thống Trần Văn Hương sẽ đảm nhiệm chức vụ Tổng thống sau khi tuyên thệ nhận chức trước sự chứng kiến của Chủ tịch tối cao Pháp viện và Lưỡng viện quốc hội.

Trong bài nói chuyện trước đông đảo thành phần lập pháp, tư pháp và hành pháp tại phòng Khánh tiết Dinh Độc Lập, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã chỉ trích thái độ chủ bại của Hoa Kỳ…, không giữ đúng các lời cam kết viện trợ quân sự và kinh tế dồi dào cho VNCH…

Ngoài ra, dư luận Hoa Kỳ cũng như Quốc hội Mỹ cho rằng việc tại chức của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cản trở các cuộc thương thuyết với phía bên kia, đã khiến cho ông phải đưa ra quyết định từ chức.

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bày tỏ rằng, sự ra đi của ông có thể khiến cho VC trở lại thương thuyết cũng như Hoa Kỳ sẽ viện trợ tức khắc và dồi dào cho VNCH nhằm bình ổn tình hình quân sự…  nếu không thì việc tại chức của ông chỉ được xem như một lý cớ để Hoa Kỳ phủi tay, rút lui, bất chấp sự công bằng và nhân đạo thì điều đó hãy để cho lịch sử phê phán.

Vì những vụ pháo kích và tấn công của VC, Hoa Kỳ vẫn làm ngơ và ông coi đó như một thái độ vô nhân đạo…

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho hay việc ông đưa quyết định từ chức không sớm mà cũng không muộn quá vì nó đúng vào lúc Quốc hội Mỹ đưa vấn đề viện trợ hay không viện trợ 722 triệu Mỹ kim theo đề nghị của Tổng thống Giêrôn Pho để quân viện bổ túc cho VNCH”[12].

Đổi lại sự ra đi của Thiệu, Tổng thống Ford giành được sự chấp thuận của Quốc hội Mỹ về khoản viện trợ cho chính quyền Sài Gòn. Cùng ngày Thiệu từ chức, báo chí đồng loạt đưa tin chỉ trong hai tuần chính phủ Mỹ đã viện trợ cho chính quyền Sài Gòn hàng trăm tấn vũ khí. “Tính từ ngày 04-4-1975 đến nay đã có trên 100 phi vụ bằng vận tải cơ khổng lồ của không lực Mỹ chuyển vận tới Việt Nam các quân tiếp liệu chính yếu gồm vũ khí cá nhân, trọng pháo, thiết giáp, vũ khí chống chiến xa và các trang bị khác. Nguồn tin từ tổng cục chiến tranh chính trị cho hay, cũng trong khoảng thời gian nói trên song song với những phi vụ tiếp tế kể trên, còn có nhiều chuyến tàu thuỷ chuyển vận số lượng đạn dược quan trọng từ Mỹ đến Việt Nam Cộng hoà”.[13]

Thậm chí, mượn chiêu bài di tản, Tổng thống Ford yêu cầu và được Quốc hội Mỹ phê chuẩn cho phép đưa quân trở lại Việt Nam khi cần thiết. Ngày 22-4-1975, qua hệ thống thông tin, Tổng thống Ford đã không úp mở tuyên bố: “một lực lượng quân sự có thể được đưa trở lại Việt Nam để giúp di tản những người Việt Nam có liên hệ tới Mỹ…” và xác nhận “một số lớn binh sĩ thuỷ quân lục chiến sẵn sàng tác chiến đã được đưa ra khỏi Hạ Uy Di[14][15].

Cùng thời điểm, tại Quốc hội Mỹ, Tham mưu trưởng lục quân Mỹ tướng Weyand và Ngoại trưởng Kissinge không ngừng kêu gọi viện trợ quân viện cho chính quyền Sài Gòn với lập luận: “Tư thế quân sự tại Nam Việt hiện nay hầu như tuyệt vọng. Một số quân viện bổ túc cho Nam Việt … sẽ khiến cho giới lãnh đạo tại Nam Việt đạt được một cuộc dàn xếp qua đường lối thương thuyết thay vì phải đương đầu với một sự chiếm đóng bất thần”[16]. Để rồi được “Hạ viện đã chấp thuận thêm 165 triệu Mỹ kim quân viện và một số ngân khoản tương đương để viện trợ kinh tế cho Nam Việt”2. Ngày 22-4-1975, Hạ viện Mỹ chấp thuận viện trợ khẩn cấp 330 triệu USD cho chính quyền Sài Gòn. Cùng ngày, 12 phản lực cơ C141 Mỹ cũng chở đầy vũ khí và đạn dược tới phi trường Tân Sơn Nhất.

Tuy nhiên, tấc cả cố gắng “níu kéo” của Tổng thống Ford cũng không giúp nước Mỹ rút ra khỏi cuộc chiến tranh ở Việt Nam trên thế mạnh. Ngày 23-4-1975, Tổng thống Ford phải cay đắng tuyên bố “chiến tranh Việt Nam được coi như chấm dứt đối với Hoa Kỳ”[17].

TS. Nguyễn Xuân Hoài

[1] Báo Quật Cường ngày 3-4-1975, phông ĐIICH, hồ sơ 5251

[2] Báo Độc Lập ngày 2-4-1975, phông ĐIICH, hồ sơ 5251

[3] Phủ Đặc úy trung ương tình báo Việt Nam cộng hòa, Những bài báo ngoại quốc đáng ghi nhận, hồ sơ 3810, phông PTTg.

[4]. Phát biểu của Nguyễn Văn Thiệu ngày 04-4-1975, phông PTTg, hồ sơ số 31559.

[5]. Tin viễn ấn ngoại quốc số 8787 ngày 20-4-1975, phông PTTg, hồ sơ 3791.

[6]. Hãng thông tấn lớn có trụ sở tại nước Anh.

[7]. Tin viễn ấn ngoại quốc ngày 21-4-1975, phông PTTg, hồ sơ 3791.

[8] Phông Phủ Thủ tướng Việt Nam cộng hòa, hồ sơ số 18882.

[9] Phông Phủ Thủ tướng Việt Nam cộng hòa, hồ sơ số 18882.

[10] Phông Phủ Thủ tướng Việt Nam cộng hòa, hồ sơ số 18882.

[11] Phông Phủ Thủ tướng Việt Nam cộng hòa, hồ sơ số 18882.

[12]. Bản tin Việt tấn xã, số 8789, thứ Ba ngày 22-4-1975 về việc Tổng thống chính quyền Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu từ chức, phông PTTg, hồ sơ số 3791.

[13]. Báo Dân chủ, Sài Gòn ngày 22-4-1975, phông ĐIICH, hồ sơ 5255.

[14]. Tức là quần đảo Haoai bang thứ 50 của Hoa Kỳ.

[15]. Tin viễn ấn ngoại quốc ngày 23-4-1975.

[16], 2. Bản kiểm thính đài phát thanh ngày 22-4-1975 của Phủ Đặc uỷ trung ương tình báo chính quyền Sài Gòn, phông PTTg, 18716.

[17] Theo tin viễn ấn ngoại quốc ngày 25-4-1975, phông PTTg, hồ sơ 3791.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *