Tài liệu lưu trữ là di sản văn hóa đặc biệt, ẩn chứa tri thức của quốc gia, dân tộc trên nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh chính trị,… từ những tri thức khoa học phục vụ đời sống thường nhật cho đến những vấn đề nhạy cảm. Do đó, một trong những yêu cầu quan trọng của công tác công bố tài liệu lưu trữ là phải đảm bảo về tính chính trị. Nghĩa là công bố tài liệu phải nhằm mục đích phục vụ sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và xã hội, bảo vệ lãnh thổ, chủ quyền đất nước, bảo vệ an ninh chính trị và phục vụ chính sách ngoại giao, phát triển quan hệ hợp tác quốc tế,… mà chung nhất là bảo đảm lợi ích quốc gia. Đồng thời, công tác công bố cũng phải đảm bảo yếu tố khách quan, trung thực và đáp ứng được yêu cầu khoa học.
Hiện nay, Trung tâm Lưu trữ quốc gia II[1] đang quản lý hơn 14.000km giá tài liệu được sản sinh trong quá trình hoạt động của các cơ quan trung ương chính quyền thực dân Pháp và chính quyền Việt Nam cộng hòa ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975. Là tài liệu được tạo bởi phía đối phương – những người đứng trên lập trường tư tưởng của giai cấp tư sản phản cách mạng. Tài liệu được tạo ra nhằm phục vụ lợi ích của giai cấp đó nên nội dung thường có luận điệu xuyên tạc sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam. Vì vậy, đòi hỏi phải rất thận trọng trong việc công bố tài liệu và kết quả khiêm tốn đạt được trong thời gian qua là minh chứng cụ thể.
Về cơ bản, công tác công bố tại Trung tâm chủ yếu sử dụng phương pháp truyền thống của nghiệp vụ lưu trữ với các hình thức như: trưng bày tài liệu, xuất bản ấn phẩm lưu trữ, viết bài đăng tạp chí hoặc tham gia hội thảo khoa học,…. Đối với trưng bày, triển lãm là việc sử dụng bản sao tài liệu (bản số hóa) và tóm tắt, trích yếu nội dung tài liệu được sử dụng cho xuất bản phẩm lưu trữ. Nguyên tắc chung của hai hình thức công bố này là tài liệu được lựa chọn, sắp xếp trên cơ sở diễn biến lịch sử và nội dung tài liệu công bố phải đảm bảo các yếu tố: giới thiệu xuất xứ, tình trạng tài liệu; tiêu đề tài liệu; địa chỉ tra tìm; nội dung tài liệu;….
Phương pháp này đạt hiệu quả cao trong việc đem tài liệu trực tiếp đến độc giả và giới thiệu khái quát được các khối tài liệu liên quan đến đề tài công bố. Như tham quan phòng trưng bày, độc giả có thể tìm thấy ngay trang tài liệu liên quan đến vấn đề đang quan tâm. Hay qua ấn phẩm, độc giả có thể nắm khái quát khối tài liệu liên quan đến đề tài nằm ở phông lưu trữ nào, tình trạng xử lý kỹ thuật, số lượng và nội dung cơ bản của tài liệu.
Tuy nhiên, phương pháp này cũng bộc lộ một số hạn chế, nhất là trong công bố tài liệu dưới dạng ấn phẩm lưu trữ.
Thứ nhất, đảm bảo yêu cầu về chính trị trong công bố:
Như trên đã trình bày, phần lớn tài liệu do Trung tâm II quản lý là tài liệu của phía đối phương, thuộc nhóm tài liệu phản diện. Do đó, trong quá trình phục dựng lại một sự kiện lịch sử của dân tộc mà chỉ dựa hoàn toàn vào tài liệu, thiếu xác minh, phân tích dễ dàng dẫn tới sự sai lạc về lịch sử và tư tưởng.
Ví dụ: khi tìm hiểu tài liệu về quá trình thi hành Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam năm 1973. Độc giả sẽ không thấy bất cứ vi phạm nào của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, khi các báo cáo quân sự từ sau ngày ký kết Hiệp định (ngày 27/1/1973) của đối phương chỉ sử dụng cụm từ “hoạt động an ninh lãnh thổ” thay cho từ “hành quân” như trước đây. Do đó, để độc giả đến gần với sự thật, người làm công tác công bố cần phải so sánh, đối chiếu hoạt động quân sự của quân đội Sài Gòn, cũng như dẫn giải các tài liệu của tổng thống hoặc thủ tướng Việt Nam Cộng hòa liên quan đến quân sự mới có thể làm sáng tỏ vấn đề. Và rõ ràng việc sử dụng phương pháp truyền thống – chỉ tóm tắt hoặc trích nguyên văn tài liệu, sẽ không đáp ứng được yêu cầu trên.
Thứ hai, đáp ứng yêu cầu khánh quan, khoa học:
Cán bộ làm công tác công bố là những người đứng trên lập trường chính diện, căn cứ vào diễn biến lịch sử Việt Nam để công bố tài liệu. Trong khi tài liệu lại được tạo bởi phía đối phương – những người có tư tưởng đối lập. Nên giữa người làm công tác công bố và tài liệu có sự không đồng nhất về tư tưởng. Điều này thể hiện rất rõ trong xuất bản phẩm, khi nội dung ngượng gạo kiểu “đầu ngô mình sở”, đề mục là “chiến thắng Phước Long” nhưng nội dung bên trong hoàn toàn là phát biểu của các quan chức, các kế hoạch, chính sách đối phó của chính quyền Sài Gòn và Hoa Kỳ, bình luận của báo chí,…. Sự khập khiễng này dẫn tới hệ quả là ấn phẩm lưu trữ thiếu logic, không rõ ràng về tư duy và độc giả cũng cảm thấy người biên soạn đang cố gắng ngượng ép tài liệu theo ý mình mà thiếu đi tính khách quan, khoa học. Từ đó, ý nghĩa làm minh chứng cho các sự kiện lịch sử của ấn phẩm lưu trữ trở nên không thuyết phục.
Thêm nữa, phương pháp trên cũng làm cho ấn phẩm dễ trở nên rời rạc, thiếu sự kết nối giữa các sự kiện, khiến người đọc khó cảm nhận. Và thực tế ấn phẩm lưu trữ biên soạn theo phương pháp truyền thống (dựa trên nguyên tắc của nghiệp vụ lưu trữ) chỉ đáp ứng được nhu cầu của các nhà khoa học, giới nghiên cứu sử học – những người có kiến thức chuyên sâu về lịch sử Việt Nam, có đủ khả năng tự kết nối các sự kiện từ tài liệu. Do đó, mục đích công bố tài liệu nhằm phục vụ rộng rãi mọi tầng lớp công chúng bị hạn chế, làm giảm tác dụng tuyên truyền, giáo dục truyền thống.
Từ những phân tích trên đưa đến nhận định, cần thiết phải áp dụng phương pháp nghiên cứu khoa học lịch sử vào việc biên soạn, công bố, giới thiệu tài liệu lưu trữ dưới dạng ấn phẩm. Ban biên soạn bên cạnh việc xác minh, đối chiếu tài liệu, có thể sử dụng các sự kiện lịch sử đã diễn ra để dẫn giải và bố cục, sắp xếp nội dung tài liệu theo một logic nhất định. Đồng thời “mô típ cũ” trong trình bày ấn phẩm cũng cần cải tiến cho gần với ấn phẩm lịch sử hơn. Như phần địa chỉ tra tìm được thiết kế riêng (có thể sắp xếp theo loại văn bản hoặc cơ quan phát hành văn bản) ở phần sau của ấn phảm. Cũng như phần giới thiệu về nguồn gốc, tình trạng tài liệu được biên soạn thành phần riêng nằm ở đầu ấn phẩm,….
Việc sử dụng từ ngữ trong công bố cũng cần mang tính khách quan, khoa học, trách sử dụng các từ mang tính thù địch, như: “bọn Việt cộng”, “cộng sản Bắc Việt”,... gây phản cảm cho người đọc.
Với cách làm như vậy, nội dung ấn phẩm sẽ trở nên cô đọng, logic, độc giả cũng dễ cảm thụ. Việc tra tìm nguồn gốc tài liệu của độc giả cũng trở nên tập trung mà không phải lật đi, lật lại từng trang sách. Ấn phẩm lưu trữ đảm bảo được cả tính chính trị, lẫn khách quan, khoa học và phục vụ được cho nhiều đối tượng, không chỉ các nhà nghiên cứu mà có thể sử dụng làm tài liệu học tập, tuyên truyền, đả phá luận điệu xuyên tạc lịch sử dân tộc của các thế lực thù địch. Giá trị tài liệu lưu trữ nhờ vậy cũng ngày càng đóng góp tốt hơn vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, phục vụ xã hội và công chúng.
Hà Kim Phương
[1] Trung tâm Lưu trữ quốc gia II – đơn vị sự nghiệp trực thuộc Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước, Bộ Nội vụ. Trụ sở: số 17A Lê Duẩn, Quận I, Tp. HCM.
Tin cùng chuyên mục:
Khó khăn và giải pháp khắc phục trong triển khai nhiệm vụ nộp lưu tài liệu lưu trữ số
Thực trạng triển khai công tác lưu trữ điện tử của Ủy ban Dân tộc
Văn học Sài Gòn 1954-1975 những chuyện bên lề
Sài Gòn 1698-1998 Kiến trúc quy hoạch