1. Đặt vấn đề
Trong những năm qua, công tác giao nộp tài liệu vào lưu trữ lịch sử đã được các cấp, các ngành quan tâm. Đây là một việc làm quan trọng đối với các cơ quan, tổ chức trong quá trình hoạt động của đơn vị mình. Hồ sơ giao nộp được đầy đủ sẽ góp phần giữ gìn an toàn toàn bộ tài liệu trong quá trình hoạt động của cơ quan và cũng là để góp phần bảo vệ an toàn tài liệu Phông lưu trữ Quốc gia Việt Nam, phục vụ nhu cầu tra cứu, sử dụng trước mắt cũng như lâu dài đối với tài liệu lưu trữ. Nếu không tiến hành giao nộp hồ sơ vào lưu trữ cơ quan thì hồ sơ, tài liệu dễ bị thất lạc và khi có nhu cầu nghiên cứu, sử dụng sẽ gặp khó khăn trong việc tra tìm.
Sở Thông tin và Truyền thông thành phố Hà Nội là cơ quan chuyên môn thuộc UBND Thành phố, thực hiện tham mưu giúp UBND Thành phố quản lý nhà nước về các lĩnh vực: báo chí – xuất bản; bưu chính, chuyển phát, viễn thông, internet, tần số vô tuyến điện; công nghệ thông tin, điện tử, phát thanh truyền hình. Trong những năm vừa qua, ngành Thông tin và Truyền thông là ngành có tốc độ phát triển nhanh, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đang trong quá trình hoàn thiện, thường xuyên có sự thay đổi, nhiều quy định còn chưa theo kịp với sự phát triển của công nghệ, đòi hỏi cán bộ, công chức viên chức phải chủ động cập nhật chính sách, kiến thức mới để đáp ứng yêu cầu quản lý, phát triển ngành; Hà Nội là nơi có dân số đông, địa bàn rộng, sự phát triển giữa các vùng, miền không đồng đều và đang trong quá trình đô thị hóa nhanh;
Công tác văn thư, lưu trữ tại Sở Thông tin và Truyền thông đã từng bước đi vào nền nếp; các phòng, đơn vị đã kịp thời quán triệt, triển khai các văn bản chỉ đạo cùa Trung ương, Thành phố về công tác văn thư, lưu trữ, cơ bản đảm bảo tuân thủ theo quy định của pháp luật. Để thực hiện có hiệu quả công tác văn thư, lưu trữ, Lãnh đạo Sở đã chỉ đạo, tổ chức thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về công tác văn thư, lưu trữ, trong đó tập trung triển khai thực hiện một số nội dung sau: Tăng cường tuyên truyền, phổ biến, quán triệt các văn bản về công tác văn thư, lưu trữ đến cán bộ, công chức, viên chức; bố trí nhân sự làm công tác văn thư, lưu trữ đảm bảo tiêu chuẩn ngạch công chức, viên chức văn thư, lưu trữ theo đúng đề án vị trí việc làm; thực hiện đầy đù chể độ phụ cấp độc hại, bồi dưỡng bằng hiện vật, bảo hộ lao động và các chế độ khác cho công chức, viên chức và người làm công tác lưu trữ theo quy định cửa pháp luật;
Bên cạnh thực hiện nghiêm Nghị định số 30/2020/NĐ-CP ngày 05 tháng 3 năm 2020 của Chính phủ về công tác văn thư trong soạn thảo, ban hành văn bản, quản lý văn bản, lập hổ sơ và nộp lưu hồ sơ, tài liệu vào Lưu trữ cơ quan; Quản lý, sử dụng con dấu và thiết bị lưu khóa bí mật. Đồng thời thường xuyên cập nhật các quy định của Nhà nước về văn thư, lưu trữ; rà soát, xây dựng, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện Quy chế công tác văn thư, lưu trữ của cơ quan. Chỉ đạo thực hiện công tác lập hồ sơ điện tử trong quá trình giải quyết công việc, giao nộp hồ sơ điện tử vào lưu trữ cơ quan, lưu trữ lịch sử; lựa chọn và số hóa tài liệu lưu trữ cơ quan, lưu trữ lịch sử đảm bảo thời gian, lộ trình theo Kế hoạch số 67/KH-UBND ngày 17 tháng 3 năm 2021, Kế hoạch triển khai thực hiện Đề án “Lưu trữ tài liệu điện tử của các cơ quan nhà nước giai đoạn 2020-2025” thuộc UBND thành phố Hà Nội. Thực hiện chế độ báo cáo thống kê công tác văn thư, lưu trữ và tàỉ liệu lưu trữ đảm bảo chất lượng theo Thông tư số 03/2018/TT-BNV ngày 06 tháng 3 năm 2018 của Bộ Nội vụ quy định chế độ báo cáo thống kê ngành Nội vụ; bố trí kinh phí đầu tư, bổ sung các trang thiết bị bảo quản tài liệu; bố trí kho lưu trữ đảm bảo đủ điện tích để bảo quản an toàn hồ sơ, tài liệu lưu trữ; tổ chức khai thác sử dụng tài liệu lưu trữ có hiệu quả, phát huy tối đa giá trị của tài liệu lưu trữ.
Sở Thông tin và Truyền thông luôn quan tâm đến việc bố trí, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ đối với cán bộ làm công tác văn thư, lưu trữ nhằm nâng cao kỹ năng nghiệp vụ, hiệu suất công tác, tổ chức công tác lập hồ sơ và quản lý, bảo quản hồ sơ một cách khoa học, phục vụ tốt cho việc nghiên cứu, khai thác và sử dụng tài liệu. Hàng năm, Sở Thông tin và Truyền thông đều ban hành các Quyết định quy định Bảng danh mục hồ sơ, tài liệu trong năm thực hiện, đồng thời cán bộ văn thư trực tiếp hướng dẫn cho công chức các bộ phận phương pháp lập hồ sơ công việc, kiểm soát kết quả thực hiện trước khi giao nộp đưa vào lưu trữ. Công tác này đã dần đi vào nền nếp, khoa học, các hồ sơ tài liệu đã được sử dụng, khai thác đáp ứng yêu cầu nghiên cứu, phục vụ nhiệm vụ của cơ quan.
Hiện nay, với sự quan tâm của Đảng, Chính phủ, các cấp lãnh đạo đối với quản lý tài liệu lưu trữ số, hệ thống pháp luật về lưu trữ số đã bước đầu hoàn thiện (Luật Lưu trữ 2011, Nghị định số 01/2013/NĐ-CP, Thông tư số 02/2019/TT-BNV, Luật Lưu trữ (sửa đổi), Công văn số 903/VTLTNN-QLII ngày 21 tháng 8 năm 2023 của Cục Văn thư và lưu trữ nhà nước về việc hướng dẫn hoạt động thu thập và nộp lưu hồ sơ, tài liệu lưu trữ điện tử vào lưu trữ lịch sử…), Sở Thông tin và Truyền thông căn cứ vào tình hình thực tiễn sẽ nghiên cứu, cụ thể hóa thêm những giải pháp thiết thực, hiệu quả đối với công tác lưu trữ điện tử để tìm ra những phương án tối ưu trong việc lập, nộp lưu hồ sơ lưu trữ điện tử, chỉnh lý hồ sơ, tài liệu điện tử, bảo quản, khai thác, tiêu hủy, chia sẻ dữ liệu lưu trữ với các cơ sở dữ liệu ngành Thông tin và Truyền thông, cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, công chức, viên chức; tích hợp Trung tâm Điều hành Thông minh của Thành phố. Phần mềm dịch vụ công trực tuyến tạo thuận lợi cho cơ quan, tổ chức và cá nhân có thể đề nghị khai thác tài liệu lưu trữ mọi nơi, mọi lúc phục vụ quá trình xử lý công việc…
2. Thuận lợi, khó khăn thực hiện việc thu nộp tài liệu lưu trữ số vào Lưu trữ lịch sử
Để triển khai thực hiện việc giao nộp tài liệu lưu trữ số vào Lưu trữ lịch sử trong thời gian tới theo hướng dẫn tại công văn số 903/VTLTNN-QLII ngày 21 tháng 8 năm 2023 của Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước về việc hướng dẫn hoạt động thu thập và nộp lưu hồ sơ, tài liệu lưu trữ điện tử vào lưu trữ lịch sử, được thực hiện tổ chức khoa học và bảo quản an toàn tài liệu lưu trữ cũng có một số thuận lợi, khó khăn nhất định.
2.1. Thuận lợi
- Hiện nay, đội ngũ công chức, viên chức đã ý thức và luôn sẵn sàng để tiếp nhận phương thức lưu trữ mới (tài liệu số).
- Công tác lưu trữ luôn nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của lãnh đạo cơ quan (Cấp uỷ Đảng bộ Sở, Lãnh đạo Sở). Các đơn vị đã bắt đầu triển khai và đưa nội dung lập hồ sơ, giao nộp hồ sơ vào lưu trữ cơ quan thành một trong các tiêu chí để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ được giao đối với công chức, viên chức.
2.2. Khó khăn
- Hành lang pháp lý về tài liệu điện tử và lưu trữ điện tử chưa quy định cụ thể.
- Nhận thức của cán bộ, công chức, viên chức về vai trò, tầm quan trọng của tài liệu điện tử và lưu trữ điện tử còn hạn chế. Hiện nay, hầu hết các cơ quan nhà nước đã trang bị máy vi tính cho cán bộ, công chức, viên chức nhưng không kiểm soát được mục tiêu và hiệu quả sử dụng, máy tính vẫn chủ yếu sử dụng soạn thảo văn bản, sử dụng một số tính năng của phần mềm hỗ trợ công tác văn phòng, do đó việc tạo lập văn bản và lưu trữ văn bản như thế nào vẫn chưa được quy định cụ thể. Hơn nữa, tài liệu điện tử là một loại hình tài liệu mới, nên việc áp dụng và triển khai thực hiện rất khó khăn và phức tạp và đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức trình độ chuyên môn công nghệ thông tin, nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của tài liệu điện tử và lưu trữ điện tử.
- Hiện nay, nhiều cơ quan, tổ chức, kể cả việc thực hiện tốt các quy trình nghiệp vụ bảo quản tài liệu lưu trữ truyền thống vẫn chưa thực hiện tốt, tài liệu chưa được lập hồ sơ hoàn chỉnh, còn tồn đọng, tích đống, chưa được thu thập, chỉnh lý tài liệu. Do vậy, việc triển khai công tác này đối với tài liệu điện tử là hết sức khó khăn.
- Việc triển khai sử dụng cơ sở dữ liệu số hóa phải đào tạo đồng bộ và có hệ thống để tất cả cán bộ, công chức, viên chức của cơ quan, tổ chức đều có thể sử dụng được tài liệu số đúng phương pháp và nguyên tắc.
- Việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác tổ chức khoa học tài liệu lưu trữ điện tử còn hạn chế, chưa có mô hình, giải pháp kỹ thuật lưu trữ, bảo quản và khai thác tài liệu điện tử.
- Nhìn chung, hiện trạng lưu trữ như vậy dễ làm thất lạc, phân tán tài liệu, rất khó tìm kiếm tài liệu và mất nhiều thời gian để phục vụ cho giải quyết công việc hàng ngày của phòng, chưa thực hiện đúng Chỉ thị số 35/CTTTg ngày 7 tháng 9 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường công tác lập hồ sơ và giao nộp hồ sơ, tài liệu vào lưu trữ cơ quan, lưu trữ lịch sử. Nếu để tình trạng trên kéo dài, việc thất thoát hồ sơ là không tránh khỏi, dẫn đến thực hiện nhiệm vụ chậm trễ. Mặt khác, tài liệu hình thành mỗi ngày một nhiều, nếu không có phương pháp quản lý khoa học sẽ gây mất mát tài liệu, khó quản lý, không phát huy được hiệu quả của kho tài liệu hiện có.
3. Đánh giá khả năng triển khai việc thu nộp tài liệu lưu trữ số vào lưu trữ lịch sử theo Công văn 903 trong thời gian tới
Tại Công văn 903/VTLTNN-QLII ngày 21 tháng 8 năm 2023 của Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước về việc hướng dẫn hoạt động thu thập và nộp lưu hồ sơ, tài liệu lưu trữ điện tử vào Lưu trữ lịch sử có nêu việc nộp trực tuyến là việc nguồn nộp lưu đẩy hồ sơ, tài liệu lưu trữ điện tử đã được đóng gói theo quy định vào Hệ thống quản lý tài liệu lưu trữ điện tử của lưu trữ lịch sử thông qua kết nối Internet. Vì vậy, việc xây dựng phần mềm, xây dựng hệ thống cần đáp ứng, tuân thủ các quy định của pháp luật cũng như hướng dẫn của của cơ quan chuyên môn về an toàn thông tin (ví dụ như Công văn số 166/CATTT-ATHTTT ngày 10 tháng 02 năm 2022 của Cục An toàn thông tin – Bộ Thông tin và Truyền thông về việc ban hành hướng dẫn “Khung phát triển phần mềm an toàn (phiên bản 1.0). Theo đó, cần phải đưa ra các nội dung cụ thể trong việc phát triển phần mềm an toàn như:
- Đảm bảo an toàn thông tin luôn gắn liền với vòng đời phát triển của phần mềm an toàn. Bao gồm các yêu cầu từ chính sách, mục tiêu và chiến lược quản lý rủi ro của đơn vị phát triển phần mềm; từ các nguồn bên ngoài (ví dụ: luật và quy định hiện hành).
- Sử dụng tự động hóa để giảm bớt nhân lực, cải thiện độ chính xác, tính nhất quán, khả năng sử dụng và tính toàn diện của các phương thức bảo mật trong suốt vòng đời phát triển của phần mềm để đảm bảo tính an toàn của tài liệu. Thực hiện đầy đủ và duy trì bảo đảm an toàn thông tin trong môi trường phát triển phần mềm.
- Bảo vệ phần mềm thông qua nhiều hình thức như ngăn chặn những thay đổi trái phép đối với mã nguồn; Sao lưu các phần mềm để giúp xác định, phân tích và loại bỏ các lỗ hổng được phát hiện trong phần mềm sau khi được đưa vào sử dụng… Đối với việc này, đề nghị đơn vị chủ quản hệ thống thông tin yêu cầu đơn vị triển khai, phát triển phần mềm phải đáp ứng các tiêu chuẩn theo quy định khi xây dựng, phát triển phần mềm.
Việc bảo đảm an toàn hệ thống thông tin cho Hệ thống quản lý tài liệu lưu trữ điện tử cần căn cứ và tuân thủ các quy định tại Nghị định số 85/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2016 của Chính phủ về bảo đảm an toàn hệ thống thông tin theo cấp độ; Thông tư số 12/2022/TT-BTTTT ngày 12 tháng 8 năm 2022 của Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Nghị định số 85/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2016 của Chính phủ về bảo đảm an toàn hệ thống thông tin theo cấp độ. Cụ thể như sau:
- Quy định, trách nhiệm của Chủ quản hệ thống thông tin, Đơn vị vận hành, Đơn vị/Bộ phận chuyên trách công nghệ thông tin, an toàn thông tin
(Căn cứ Khoản 1, Điều 3 Nghị định số 85/2016/NĐ-CP để xác định Chủ quản hệ thống thông tin).
- Đơn vị vận hành hệ thống thông tin được quy định tại Khoản 3 Điều 3 Nghị định số 85/2016/NĐ-CP. Theo đó, Đơn vị vận hành hệ thống thông tin sẽ là Phòng, ban hoặc đơn vị trực thuộc được Chủ quản giao nhiệm vụ vận hành hệ thống. Trường hợp thuê ngoài dịch vụ công nghệ thông tin thì Đơn vị vận hành hệ thống thông tin là bên cung cấp dịch vụ. Trách nhiệm của Đơn vị vận hành quy định tại Điều 22 Nghị định số 85/2016/NĐ-CP.
- Đơn vị/Bộ phận chuyên trách công nghệ thông tin, an toàn thông tin được quy định theo điểm a Khoản 1 Điều 20 Nghị định số 85/2016/NĐ-CP. Người đứng đầu cơ quan là chủ quản hệ thống thông tin có trách nhiệm trực tiếp chỉ đạo và phụ trách công tác bảo đảm an toàn thông tin trong hoạt động của cơ quan. Trách nhiệm của đơn vị chuyên trách quy định tại Điều 21 Nghị định số 85/2016/NĐ-CP.
- Trường hợp cơ quan đã có đơn vị chuyên trách công nghệ thông tin nhưng chưa có chuyên trách an toàn thông tin độc lập thì với trách nhiệm là Chủ quản có thể thực hiện 1 trong 2 việc:
+ Chỉ định đơn vị chuyên trách công nghệ thông tin làm nhiệm vụ đơn vị chuyên trách an toàn thông tin.
+ Thành lập hoặc chỉ định bộ phận chuyên trách an toàn thông tin trực thuộc đơn vị chuyên trách công nghệ thông tin.
4. Một số ý kiến đóng góp hướng dẫn triển khai việc thu nộp tài liệu lưu trữ số vào lưu trữ lịch sử theo Công văn 903
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống quản lý tài liệu lưu trữ điện tử để áp dụng tại các lưu trữ lịch sử, đáp ứng yêu cầu của pháp luật và bảo đảm giải pháp tích hợp, kết nối liên thông nhằm trích xuất, nộp lưu tài liệu có thời hạn bảo quản vĩnh viễn vào lưu trữ lịch sử thuộc nguồn nộp lưu; sử dụng phần mềm hiện có để thực hiện đồng bộ, liên thông cơ sở dữ liệu địa chính từ khâu tiếp nhận hồ sơ đầu vào đến quá trình luân chuyển giải quyết hồ sơ cho đến khi kết thúc và hoàn chỉnh hồ sơ để nộp lưu vào Lưu trữ cơ quan theo quy định, tiến tới kết nối cơ sở dữ liệu quốc gia.
Thực hiện các giải pháp về tổ chức bộ máy, công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu quản lý tập trung thống nhất tài liệu lưu trữ điện tử của các cơ quan nhà nước.
Xây dựng mô hình kiến trúc tổng thể, kiến trúc nghiệp vụ, kiến trúc dữ liệu của Hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu tài liệu lưu trữ điện tử bảo đảm an toàn, an ninh thông tin, khả năng kết nối cao, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế, hiện đại, phù hợp với mô hình Chính phủ điện tử. Xây dựng và thực hiện chiến lược, chương trình, kế hoach đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn cho cán bộ, công chức, viên chức thực hiện nhiệm vụ quản lý tài liệu lưu trữ điện tử và nghiệp vụ lưu trữ tài liệu lưu trữ điện tử trong các cơ quan Nhà nước.
Hướng dẫn tiến hành tổ chức phân loại, xác định giá trị và sắp xếp tài liệu một cách khoa học, phục vụ thuận lợi, nhanh chóng, chính xác cho công tác thu thập, bổ sung tài liệu; phân loại tài liệu, xác định giá trị tài liệu; tổ chức các công cụ tra tìm tài liệu và một số công tác bổ trợ khác của các ngành khoa học, kỹ thuật, tin học có liên quan.
5. Giải pháp đối với Sở Thông tin và Truyền thông thành phố Hà Nội
Một là, trong thời gian tới sẽ thường xuyên kiểm tra, đánh giá, chấn chỉnh và làm rõ chi tiết hơn nữa trong việc lập Danh mục hồ sơ tài liệu. Đẩy mạnh việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức và tinh thần trách nhiệm trong cán bộ, công chức về ý nghĩa và tầm quan trọng đối với công tác lập hồ sơ và giao nộp hồ sơ vào Lưu trữ cơ quan.
Hai là, đề xuất ưu tiên bố trí đầy đủ kinh phí để đáp ứng nhu cầu về trang thiết bị, phương tiên làm việc cho công tác lập hồ sơ công việc và nộp lưu hồ sơ vào Lưu trữ cơ quan. Có chế độ bồi dưỡng thỏa đáng cho cán bộ lưu trữ trong các thời điểm thu nhận, chỉnh lý khối lượng tài liệu lớn.
Ba là, thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng về nghiệp vụ văn thư, lưu trữ cho Lãnh đạo, công chức và viên chức đúng chất lượng, nhất là đối với công tác lưu trữ. Đảm bảo trong quá trình triển khai công việc cán bộ văn thư, lưu trữ phải có năng lực chuyên môn, phải đáp ứng được yêu cầu công việc.
Bốn là, nghiên cứu triển khai có hiệu quả Kế hoạch số 67/KH-UBND ngày 17 tháng 3 năm 2021 của UBND Thành phố Hà Nội về triển khai thực hiện Đề án “Lưu trữ tài liệu điện tử của cơ quan nhà nước giai đoạn 20202025” thuộc thành phố Hà Nội.
Công tác lưu trữ đang ở giai đoạn chuyển đổi vô cùng quan trọng mang tính cách mạng. Khác biệt với việc lưu trữ văn bản giấy, lưu trữ văn bản điện tử cần đảm bảo hạ tầng kỹ thuật và đặc biệt là yêu cầu định danh, xác thực người dùng thông qua hệ thống chữ ký số, chứng thư số chuyên dùng nhằm đảm bảo tính an toàn, bảo mật và giá trị pháp lý khi thực hiện trên môi trường điện tử. Chữ ký số và lưu trữ tài liệu điện tử giúp hình thành những Kho lưu trữ số đáp ứng tiêu chuẩn sẽ tạo nền tảng xây dựng Chính quyền số, công dân số.
Sở Thông tin và Truyền thông với vai trò là cơ quan tham mưu cho UBND Thành phố quản lý về báo chí đã chỉ đạo các cơ quan báo chí trên địa bàn Thành phố có trách nhiệm phối hợp với Sở Nội vụ trong việc tuyên truyền, phổ biến các quy định của Nhà nước về công tác văn thư, lưu trữ đặc biệt là công tác lập hồ sơ và giao nộp hồ sơ, tài liệu vào Lưu trữ cơ quan, Lưu trữ lịch sử. Đảm bảo việc triển khai thực hiện Luật Lưu trữ và các văn bản hướng dẫn về nghiệp vụ lưu trữ đúng quy định; tăng cường bảo vệ và phát huy giá trị tài liệu lưu trữ; phát huy tính năng sử dụng Kho lưu trữ chuyên dụng của Thành phố đã hoàn thành, đưa vào sử dụng.
Từng bước đưa công tác thu thập và bổ sung tài liệu vào Danh mục dịch vụ sự nghiệp công thuộc lĩnh vực Lưu trữ. Thực hiện Thông tư số 01/2023/TT-VPCP ngày 05 tháng 4 năm 2023 của Văn phòng Chính phủ quy định một số nội dung và biện pháp thi hành trong số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính và thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử. Với những yêu cầu trên; Toàn bộ các dữ liệu của công dân, doanh nghiệp bao gồm thành phần hồ sơ và kết quả giải quyết thủ tục hành chính có thể được số hóa và được xác thực bằng chữ ký số của công dân, tổ chức, doanh nghiệp trên hệ thống phần mềm và được lưu trữ trên kho dữ liệu của công dân, tổ chức, doanh nghiệp, cho phép công dân, doanh nghiệp được sử dụng lại các dữ liệu trên kho để thực hiện các thủ tục hành chính lần sau theo đúng quy định. Căn cứ nhiệm vụ được giao, Sở Thông tin và Truyền thông đã tham mưu UBND Thành phố Hà Nội ban hành Kế hoạch số 259/KH-UBND ngày 19 tháng 11 năm 2021 về số hóa kết quả giải quyết thủ tục hành chính còn hiệu lực theo quy định tại Nghị định số 45/2020/NĐ-CP của Chính phủ. Về chức năng số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính đã được triển khai trên hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính của Thành phố đáp ứng theo quy định.
Nâng cao vai trò quan trọng của công tác lưu trữ, tiến tới tạo nguồn thu từ dịch vụ sự nghiệp công. Bảo quản tài liệu một cách có hệ thống, khoa học, quản lý, bảo vệ an toàn, đảm bảo bí mật Nhà nước, giúp công tác khai thác, tra tìm nhanh chóng, phục vụ tốt công tác nghiên cứu, sử dụng có hiệu quả tài liệu lưu trữ; đồng thời tạo điều kiện cho các cơ quan, tổ chức có cơ sở sắp xếp, chỉnh lý tài liệu để nộp lưu vào lưu trữ lịch sử cấp tỉnh theo quy định. Đảm bảo việc triển khai thực hiện Luật Lưu trữ và các văn bản hướng dẫn về nghiệp vụ lưu trữ đúng quy định; tăng cường bảo vệ và phát huy giá trị tài liệu lưu trữ. Từng bước đưa công tác thu thập và bổ sung tài liệu vào Danh mục dịch vụ sự nghiệp công thuộc lĩnh vực lưu trữ, nâng cao vai trò quan trọng của công tác lưu trữ, tiến tới tạo nguồn thu từ dịch vụ sự nghiệp công. Bảo quản tài liệu một cách có hệ thống, khoa học, quản lý, bảo vệ an toàn, đảm bảo bí mật Nhà nước, giúp công tác khai thác, tra tìm nhanh chóng, phục vụ tốt công tác nghiên cứu, sử dụng có hiệu quả tài liệu lưu trữ; đồng thời tạo điều kiện cho các cơ quan, tổ chức thuộc Danh mục nguồn nộp lưu tài liệu vào Lưu trữ lịch sử Thành phố có cơ sở sắp xếp, chỉnh lý tài liệu để nộp vào lưu trữ lịch sử theo quy định./.
Nghiêm Quang Thông – Nguyễn Thị Hương Quỳnh
Sở Thông tin và Truyền thông thành phố Hà Nội
Tin cùng chuyên mục:
Khó khăn và giải pháp khắc phục trong triển khai nhiệm vụ nộp lưu tài liệu lưu trữ số
Thực trạng triển khai công tác lưu trữ điện tử của Ủy ban Dân tộc
Văn học Sài Gòn 1954-1975 những chuyện bên lề
Sài Gòn 1698-1998 Kiến trúc quy hoạch