Phiên họp đầu tiên của Quốc hội khóa I ngày 02/3/1946

Hướng tới ngày bầu cử Đại biểu Quốc hội khóa XIV, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 – 2021, qua tài liệu lưu trữ, chúng tôi xin giới thiệu những khoảnh khắc lịch sử quan trọng của đất nước về Kỳ họp đầu tiên của Quốc hội Việt Nam.

Ngược dòng lịch sử, cách đây 70 năm kể từ ngày 02/3/1946, Kỳ họp đầu tiên đã được khai mạc tại Thủ đô Hà Nội sau thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên ở nước ta ngày 06/01/1946, với hơn 90% cử tri đã đi bỏ phiếu bầu đại biểu Quốc hội Việt Nam, lần đầu tiên nhân dân Việt Nam được thực hiện quyền công dân của mình, tự tay bỏ phiếu bầu những đại biểu chân chính đại diện vào cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước. Sự ra đời của Quốc hội đặt nền móng cho chủ quyền dân tộc, khẳng định với thế giới rằng vận mệnh của nước Việt Nam do chính nhân dân Việt Nam định đoạt thông qua các đại biểu của chính mình. Đó còn là sự thể hiện ý chí giành và giữ vững nền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam được kết tinh trong một cơ quan quyền lực chính thức của nhân dân. Ngày 02/3/1946 vào hồi 08 giờ, tại Nhà Hát lớn thành phố Hà Nội, Thủ đô nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, toàn thể đại biểu toàn quốc được bầu ra đã họp với sự tham gia của các thân hào ngoại quốc và Việt Nam, các đại biểu, đoàn thể cùng phóng viên các báo được mời tham dự.

Mở đầu kỳ họp, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời đọc diễn văn khai mạc, Người khẳng định: “Cuộc Quốc dân đại biểu đại hội này là lần đầu tiên trong lịch sử của nước Việt Nam ta. Nó là một kết quả của cuộc Tổng tuyển cử ngày 06/1/1946, mà cuộc Tổng tuyển cử lại là kết quả của sự hy sinh, tranh đấu của tổ tiên ta, nó là kết quả của sự đoàn kết anh dũng, phấn đấu của toàn thể đồng bào Việt Nam ta, sự đoàn kết của toàn thể đồng bào không kể già trẻ, lớn bé, gồm tất cả các tôn giáo, tất cả các dân tộc trên bờ cõi Việt Nam đoàn kết chặt chẽ thành một khối hy sinh không sợ nguy hiểm tranh lấy nền độc lập cho Tổ quốc…”(1).

 Ky quoc hoi dau_001
 Chủ tịch Hồ chí Minh khai mạc phiên họp đầu tiên của Quốc hội khóa I ngày 02/3/1946

 TTLT QG III, Mục lục ảnh phông Nguyễn Bá Khoản, số 206- C15

Kỳ họp đầu tiên của Quốc hội diễn ra trong vòng nửa ngày nhưng đã làm được nhiều việc rất quan trọng, trước hết, Quốc hội nghe Chính phủ Liên hiệp Lâm thời báo cáo về những việc đã làm được cho đến thời điểm diễn ra Kỳ họp và bầu Chính phủ chính thức.

Thay mặt Chính phủ Lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh báo cáo: “… Nhờ sức đoàn kết mạnh mẽ của toàn dân, chúng ta đã giành được chính quyền. Nhưng mà vừa giành được chính quyền vừa lập nên Chính phủ thì chúng ta gặp nhiều sự khó khăn, miền Nam bị nạn xâm lăng, miền Bắc bị nạn đói khổ. Song nhờ ở sự ủng hộ nhiệt liệt của toàn thể đồng bào và lòng kiên quyết phấn đấu của Chính phủ, chúng ta đã làm được đôi việc: Việc thứ nhất là ra sức kháng chiến; Việc thứ hai là giảm bớt sự đói kém bằng cách thực hành tăng gia sản xuất; Việc thứ ba là Chính phủ đã tổ chức cuộc Tổng Tuyển cử; Việc thứ tư là do kết quả của cuộc tổng tuyển cử ấy mà có Quốc hội hôm nay.”(2)

Đồng thời Chính phủ cũng đã xác định trước Quốc hội: “còn nhiều việc lớn lao hơn nữa nên làm, nhưng vì hoàn cảnh khó khăn nên Chính phủ chưa làm hết. Gánh nặng đó Chính phủ để lại cho Quốc hội, cho Chính phủ mới mà Quốc hội cử ra”. Và “việc hệ trọng nhất bây giờ là kháng chiến. Từ tháng 9 năm ngoái xẩy ra nạn xâm lăng miền Nam. Một mặt Chính phủ đã hô hào quốc dân sẵn sàng chuẩn bị cuộc trường kỳ kháng chiến, và một mặt đã điều động bộ đội để tiếp viện những nơi bị xâm lăng”(3).

Chính phủ Lâm thời làm Lễ từ chức và bầu Chính phủ mới – Chính phủ Liên hiệp kháng chiến: “Bây giờ Chính phủ Lâm thời xin giao lại quyền cho Quốc hội để tổ chức một Chính phủ mới: một Chính phủ Kháng chiến và kiến quốc”. Về việc bầu Chính phủ Liên hiệp kháng chiến, Quốc hội đã đề cử Chủ tịch là cụ Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch là cụ Nguyễn Hải Thần và được toàn thể hội đồng tán thành. Chủ tịch Hồ Chí Minh ra mắt trước Quốc hội và nói: “Thưa Quốc hội. Lại một lần nữa, lần này là lần thứ ba, tôi bị ủy nhiệm cái gánh nặng. Tôi xin cảm ơn Quốc hội và toàn thể quốc dân đã có lòng tin cậy tôi, cứ có lòng tin cậy tôi.” Chính phủ mới “gồm có các đại biểu các đảng phái và các anh em không đảng phái, trước đây đã thương lượng và thỏa thuận với nhau, vì vậy sự tổ chức mới được nhanh chóng như thế… đều là những người có tuổi tác, có danh vọng, đạo đức, một mặt có thể giúp ý kiến cho Chính phủ, một mặt có thể điều khiển quốc dân”(4). 10 vị Bộ trưởng đứng đầu các Bộ, gồm:

Bộ Ngoại giao: Ông Nguyễn Tường Tam;

Bộ Nội vụ: Cụ Huỳnh Thúc Kháng;

Bộ Kinh tế: Ông Chu Bá Phượng;

Bộ Tài chính: Ông Lê Văn Hiến;

Bộ Quốc phòng: Ông Phan Anh;

Bộ Xã hội kiêm cả Y tế, cứu tế và lao động: Bác sĩ Trương Đình Tri;

Bộ Giáo dục: Đặng Thai Mai;

Bộ Tư pháp: Ông Vũ Đình Hòe;

Bộ Giao thông Công chính: Ông Trần Đăng Khoa quản lý;

Bộ Canh nông: Ông Bồ Xuân Luật;

Tối cao Cố vấn đoàn: Ông Vĩnh Thụy.

Về kháng chiến ủy viên hội, Chủ tịch: Ông Võ Nguyên Giáp; Phó Chủ tịch: Ông Vũ Hồng Khanh.

Như vậy, Chính phủ kháng chiến đã thành lập, Chính phủ, Cố Vấn đoàn và Kháng chiến Ủy viên đã tuyên thệ nhậm chức, toàn thể đại biểu Quốc hội đều giơ tay tán thành, truy nhận Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến và Kháng chiến Ủy viên hội do cụ Hồ Chí Minh và cụ Nguyễn Hải Thần lập ra. Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc lời thề trước bàn thờ Tổ quốc: “Chúng tôi, Chính phủ kháng chiến nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa, Tối cao cố vấn đoàn và Ủy viên Kháng chiến hội, trước bàn thờ thiêng liêng của Tổ quốc, trước Quốc hội thề xin cương quyết lãnh đạo nhân dân kháng chiến, thực hiện nền dân chủ cộng hòa Việt Nam, mang lại tự do, hạnh phúc cho dân tộc. Trong công việc giữ gìn nền độc lập, chúng tôi quyết vượt mọi nỗi khó khăn dù phải hy sinh tính mệnh cũng không từ”.(5)

Đáp lại Lời thề của Chủ tịch Chính phủ, ông Nguyễn Đình Thi đại diện Quốc hội đã chào mừng Chính phủ Liên hiệp kháng chiến: “Đứng trước tình thế nước nhà đang bị thực dân Pháp xâm lăng, cần phải thống nhất tất cả lực lượng của toàn thể dân tộc, và cần phải có một cơ quan điều khiển mạnh mẽ để kháng chiến đến đắc thắng, trong phiên họp hôm nay, ngày 2 tháng 3 năm 1946, tại Hà Nội, thủ đô nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, quyết định truy nhận Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Phó Chủ tịch Nguyễn Hải Thần lập ra, và Quốc hội trao quyền bính cho Chính phủ ấy.

Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến có nhiệm vụ thực hiện triệt để sự thống nhất các lực lượng của quốc dân về phương diện quân sự, tuyên truyền cũng như về phương diện hành chính, tư pháp, tổng động viên nhân lực và tài sản của quốc gia theo sự nhu cầu của tình thế, để đưa kháng chiến tới thắng lợi và nước nhà đến độc lập hoàn toàn”(6).

Kết thúc phần thứ nhất, Quốc hội đã đạt được nội dung quan trọng là nghe báo cáo và lập ra một Chính phủ chính thức của nhân dân Việt Nam, đảm đương sứ mệnh lãnh đạo nhân dân Việt Nam xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

Việc thứ hai: toàn thể đại biểu Quốc hội nghe lời chào mừng Quốc hội của đoàn đại biểu nhân dân Hà Nội: “Quốc hội khai mạc ngày hôm nay không nhữn đánh dấu một bước tiến quan trọng của nước nhà, mà còn tượng trưng cái ý chí đoàn kết chặt chẽ của toàn dân, cái ý chí dân tộc mật thiết liên minh của nước Việt Nam và anh chị em thiểu số, cái ý chí rất thích hợp với trào lưu tiến hóa của nhân loại. Sự đoàn kết đó đã đem lại cho nhân dân chúng tôi một ánh sáng mới, làm cho sự tin tưởng ở nước nhà càng thêm mãnh liệt. Nhân dân chúng tôi quyết tâm kết thành một khối để làm hậu thuẫn đắc lực cho Chính phủ trong việc kháng chiến, kiến quốc để đưa nước nhà đến vinh quang, hạnh phúc, dưới quyền chỉ đạo của cụ Hồ mà chúng tôi rất tin tưởng”(7). và các đoàn thể cứu quốc thành Hoàng Diệu: “Để tỏ lòng tin tưởng sâu xa của chúng tôi đối với Quốc hội, chúng tôi mong Quốc hội lần đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa sẽ như một ngôi sao sáng chói lọi và chiếu sáng xuống tận toàn cõi đất nước Việt Nam”(8).

Việc tiếp theo là: Kỳ họp đã thông qua bản Tuyên ngôn của Quốc hội Việt Nam. Có thể nói đây là sự kế tục của bản “Tuyên ngôn độc lập” Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường Ba Đình ngày 02/9/1945 và đây cũng là tư tưởng chủ đạo của bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được ban hành năm 1946.

“Quốc hội Đại hội do Chính phủ Lâm thời triệu tập, trong phiên họp khai mạc ngày 2 tháng 3 năm 1946 tại Hà Nội, thủ đô nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, trịnh trọng tuyên bố với quốc dân Việt Nam, với thế giới:

1) Từ khi chiến tranh phát sinh, thì nhân dân Việt Nam vẫn tiếp tục chiến đấu chống Nhật, bên cạnh Đồng Minh. Đến khi Nhật Bản đầu hang Đồng Minh, dân tộc Việt Nam tổng khởi nghĩa, giật chính quyền, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa;

2) Chủ quyền của nước Việt Nam độc lập thuộc về toàn thể dân Việt Nam.

Vận mệnh quốc gia Việt Nam là ở trong tay Quốc hội Việt Nam; chính thể của nước Việt Nam là chính thể dân chủ cộng hòa, có nhiệm vụ bảo vệ tự do và mưu đồ hạnh phúc cho mọi tầng lớp nhân dân. Các dân tộc ở trên lĩnh thổ Việt Nam đều có quyền hạn và nhiệm vụ ngang nhau.

3) Nền độc lập và dân chủ đã lập nên, nhờ sự đoàn kết hy sinh và chiến đấu của toàn dân.

Ngày 23 tháng 9 năm 1945, thực dân Pháo lại dùng vĩ lực xâm lược bờ cõi Việt Nam. Hành động ấy trái hẳn những quyền dân tộc bình đẳng và dân tộc tự quyết; là những nguyên tắc đã được công nhận trong những hội nghị của các nước Đồng mình.

Quốc hội Việt Nam kiên quyết bảo vệ đến cùng nền độc lập và lãnh thổ của quốc gia và quyền tự do của nhân dân Việt Nam.

 Quốc hội Việt Nam ra lệnh cho toàn thể quốc dân tận lực chống giữ giang sơn, và xây dựng lại Tổ quốc để dân tộc Việt Nam tiến nhanh tới vinh quang, cường thịnh”(9).

 Việc làm đồng thời tiếp theo là: Quốc hội đã gửi điện văn cho nhân dân toàn quốc, các chiến sĩ ngoài mặt trận, các dân tộc thiểu số, kiều bào ở Pháp, Hải ngoại, Liên Hiệp quốc, dân chúng Trung Hoa, dân tộc Ai Lao, Đức Giáo hoàng, dân chúng Pháp và quốc tế… để thông báo về sự ra đời của Quốc hội Việt Nam, khẳng định chủ quyền và nền độc lập thuộc về Việt Nam, thể hiện tinh thần đoàn kết quốc tế của nhân dân Việt Nam đồng thời yêu cầu quốc tế ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc lặp của dân tộc Việt Nam.

Một trong những việc hết sức quan trọng mà Kỳ họp thứ nhất đã làm đó là lập Ban Thường trực Quốc hội. Các đại biểu đã họp, thảo luận sôi nổi về các vấn đề như quyền hạn và nhiệm vụ của Ban Thường trực Quốc hội, số lượng đại biểu thuộc Ban và đi đến thống nhất:

– Về quyền hạn của Ban Thường trực là:

“1) Góp ý kiến với Chính phủ;

2) Phê bình Chính phủ và khi Chính phủ đi ngược lại quyền lợi quốc dân, thì có quyền hiệu triệu quốc dân;

3) Triệu tập Quốc hội trong những trường hợp sau này:

a/ Khi Chính phủ yêu cầu;

b/ Khi quá nửa số đại biểu yêu cầu;

c/ Khi quá nửa Ủy viên Thường trực xét thấy cần phải triệu tập;

4) Khi tuyên chiến hay đình chiến, bắt buộc phải được hỏi ý kiến;

5) Khi ký hiệp ước với nước ngoài phải triệu tập Quốc hội để chuẩn y”(10).

– Số lược người trong Ban Thường trực là 15 người.

Việc bầu Ban Thường trực Quốc hội và quy định nhiệm vụ của Ban là một trong những thành công của Kỳ họp, tạo cơ sở vững chắc cho hoạt động của Quốc hội.

Việc cuối cùng mà kỳ họp Quốc hội đầu tiên đã bàn, thảo luận và đi đến thống nhất thông qua là: thành lập Ủy ban Dự thảo Hiến pháp gồm 11 người, có nhiệm vụ soạn thảo Hiến pháp của nước Việt Nam. Quốc hội cũng nhất trí quy định tạm lấy lá cờ đỏ sao vàng là Quốc kỳ và bài Tiến quân ca là Quốc ca.

Quốc hội bế mạc lúc 13 giờ 10 phút cùng ngày sau lời tuyên bố bế mạc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những tiếng hô khẩu hiệu:

– “Kháng chiến thắng lợi!

– Kiến quốc thành công!

– Việt Nam độc lập muôn năm.”(11)

Như vậy, qua thời gian rất ngắn với 5 tiếng đồng hồ, Kỳ họp đầu tiên – Kỳ họp khai sinh của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thành công tốt đẹp, hoàn thành những nội dung cơ bản và quyết định những vấn đề quan trọng của Quốc hội, đặt cơ sở, nền móng cho việc xây dựng và từng bước củng cố, hoàn thiện bộ máy Nhà nước Trung ương, đánh dấu một mốc son lịch sử khởi đầu hoạt động lập pháp của Quốc hội Việt Nam cùng chặng đường hoạt động của Quốc hội. Qua Biên bản từ tài liệu lưu trữ là chứng cứ lịch sử vô cùng quý giá được hình thành trong khoảnh khắc lịch sử quan trọng của đất nước về Kỳ họp đầu tiên của Quốc hội Việt Nam. Nghiên cứu nội dung biên bản Kỳ họp chúng ta như được chứng kiến toàn cảnh không gian, thời gian, diễn biến, nội dung và không khí của kỳ họp.

 Vũ Thị Lan Anh – Trung tâm Lưu trữ quốc gia III

Chú thích:

  1. Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, phông Quốc hội, hồ sơ03, tờ 2
  2. Hồ sơ đã dẫn,tờ 3
  3. Hồ sơ đã dẫn, tờ 3
  4. Hồ sơ đã dẫn, tờ 5
  5. Hồ sơ đã dẫn, tờ 8
  6. Hồ sơđã dẫn, tờ 9
  7. Hồ sơđã dẫn, tờ 9
  8. Hồ sơđã dẫn, tờ 10
  9. Hồ sơđã dẫn, tờ 10
  10. Hồ sơđã dẫn, tờ 20
  11. Hồ sơđã dẫn, tờ 23

Nguồn: archives.gov.vn

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *