Tây Ninh – một trong những vùng đất địa đầu quan trọng của đất nước, đã trải qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau, gắn liền với quá trình mở cõi về phương Nam của dân tộc. Trong lịch sử khẩn hoang vùng đất phía Nam, đứng trước thiên nhiên hoang dã “con chim kêu phải sợ, con cá vùng phải kinh”, những lưu dân Việt với nghị lực phi thường đã khai phá vùng đất mới thành nơi trù phú. Để đến năm 1698, Minh Vương Nguyễn Phúc Chu sai Thống Suất Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lược, chính thức xác lập đơn vị hành chính của Việt Nam tại vùng đất mới. Trên cơ sở các vùng đất do lưu dân Việt khai phá, Nguyễn Hữu Cảnh “lấy đất Nông Nại đặt làm phủ Gia Định, lập xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên; lập xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn: Mỗi dinh đặt chức lưu thủ, cai bộ và ký lục để cai trị”([1]). Sau khi đặt xong cơ sở hành chánh, Nguyễn Hữu Cảnh chiêu mộ lưu dân nghèo khó, xiêu tán vào phủ Gia Định lập nghiệp, làm cho dân cư ngày một đông đúc, phồn thịnh.
Năm 1744, chúa Nguyễn Phúc Khoát chính thức xưng vương, chia xứ Đàng Trong làm 12 dinh. Theo đó phần đất phía Nam gồm 3 dinh và 1 trấn: dinh Trấn Biên, dinh Phiên Trấn, dinh Long Hồ, trấn Hà Tiên. Năm 1788, sau khi củng cố thành Gia Định chúa Nguyễn Phúc Ánh (Nguyễn Ánh) chọn vùng đất phía Nam làm căn cứ lập nghiệp, gọi là Gia Định([2]), chia ra làm bốn dinh: dinh Phiên Trấn, dinh Trấn Biên, dinh Trấn Vĩnh, dinh Trấn Định. Theo sự phân chia đó, vùng đất Tây Ninh ngày nay thuộc dinh Phiên Trấn, phủ Gia Định.
Năm 1802. sau khi lên ngôi lấy niên hiệu là Gia Long, đặt kinh đô ở Phú Xuân (Huế), Nguyễn Ánh chính thức đổi dinh Phiên Trấn thành trấn Gia Định gồm 4 trấn, 4 phủ và 15 huyện, cộng thêm trấn Hà Tiên gồm 2 đạo và 2 huyện([3]).
1 | Trấn Phiên An (vùng Sài Gòn và Bình Dương ngày nay) | Phủ Tân Bình
4 huyện: – Bình Dương – Tân Long – Phước Lộc – Thuận An |
2 | Trấn Biên Hòa | Phủ Phước Long
4 huyện: – Phước Chánh – Bình An – Long Thành – Phước An |
3 | Trấn Vĩnh Tường | Phủ Kiến An
3 huyện: – Kiến Đăng – Kiến Hưng – Kiến Hòa |
4 | Trấn Vĩnh Thanh | Phủ Định Viễn
4 huyện: – Vĩnh Bình – Vĩnh An – Tân An – Vĩnh Định |
5 | Trấn Hà Tiên | 2 đạo, 2 huyện:
Đạo Long Xuyên Huyện Long xuyên Đạo Kiên Giang Huyện Kiên Giang |
Năm 1808, vua Gia Long tiếp tục phân địa giới Việt Nam làm 2 miền gọi là Bắc thành và trấn Gia Định gọi là Gia Định thành, vùng Thừa – Thiên gọi là Kinh kỳ([4]). Về tổ chức hành chính, vua Gia Long đặt Gia Định thành dưới quyền cai trị của một Tổng trấn. Ở 5 trấn thuộc hạt thì đặt các quan Lưu trấn hay quan Trấn thủ. Dưới có Cai bạ và Ký lục coi việc cai trị trong trấn. Dưới trấn là các phủ, huyện có các quan Tri phủ và Tri huyện. Tại vùng đất Tây Ninh, Gia Long cho thiết lập các đạo Quang Hóa, Quản Phong, Thuận Thành đặt trực thuộc trấn Phiên An[5].
Năm 1832 (năm Minh mang thứ 13), sau khi Tổng trấn Gia Định Lê Văn Duyệt qua đời, vua Minh Mạng đổi trấn làm tỉnh, chia toàn Nam kỳ làm sáu tỉnh: Gia Định (Phan Yên), Biên Hòa (Đồng Nai), Định Tưởng (Mỹ Tho), Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên với 18 phủ, 43 huyện([6]). Trong mỗi tỉnh, Minh Mạng đặt chức Tổng đốc, Tuần phủ, Bố Chính sứ, Án Sát sứ và Lãnh binh để lo việc nội an và quân sự. Dưới tỉnh có các cấp hành chánh theo thứ tự: phủ – huyện – tổng – làng.
Đối với Tây Ninh, “một dải địa phương thành Quang Hóa, tỉnh Gia Định, giáp giới các phủ Tuy Lạp, Tầm Đồn, Kha Lâm và Bà Nam thuộc thành Trấn Tây địa thế rất là xung yếu”[7]. Triều đình cho “đặt đạo Quang Hóa và các thủ sở Thuận Thành, Quang Phong, Quang Phục, Quang Uy, Kiên Uy để coi giữ; các trại Phiêm, Chàm quy phụ kể có hàng ngàn….”[8].
Năm Bính Thân, Minh Mạng thứ 17 (1836), “Kinh lược sứ Trương Minh Giảng và Trương Đăng Quế, thân đến tận nơi, xem thấy từ cầu Tây Huê ngoài tỉnh thành thẳng đến 1 con đường lớn phủ Kha Lâm, khoảng giữa có đồn Xỉ Khê (tức chỗ ở của Chương cơ Cố trước) đất rộng, phẳng mà màu mỡ, người Kinh, người Phiên ở xen nhau, làm ăn cày cấy. Bên tả có sông nhỏ ăn thông với sông Quang Hóa (sông này nguyên từ phủ Ba Nam mà chảy đến); bên hữu có con đường bộ, ăn thông đến sông Đục (Trọc giang – tg) (thuộc thủ sở Quang Phong, giáp giới hạt Biên Hòa), hình thể khá đẹp. Bọn Giảng bèn dâng sớ xin đặt phủ lỵ ở đó, rồi tùy địa thế liên lạc nên chia 2 huyện lệ thuộc vào. Lại đặt 1 đồn bảo ở bên sông Đục để làm thế ỷ giốc với thành Quang Hóa, trong có thể làm phên giậu giữ vững cho Gia Định, ngoài có thể tăng thêm thanh thế cho Trấn Tây”[9]. Chuẩn tấu lời tâu của đình thần, vua ban dụ: “Nay đổi đặt đồn Xỉ Khê làm huyện Tân Ninh; đạo Quang Hóa làm huyện Quang Hóa, gọi thành Quang Hóa là huyện thành. Lại đặt phủ Tây Ninh kiêm huyện Tân Ninh. Nhân cái đồn bảo cũ, chữa cao rộng thêm, để làm thành phủ thành. Đổi sông Đục là sông Thanh Lưu, đặt đồn, bảo Thanh Lưu, cho lệ thuộc và huyện Tân Ninh”[10]. Tiếp đó, vua Minh Mạng chuẩn y lời tấu của Nguyễn Văn Trọng “lấy 25 xã dân Phiên cùng với 6 xã, thôn dân Kinh ở 2 huyện Thuận An, Bình Dương tiếp cận huyện Tân Ninh, chia làm 2 tổng cho lệ thuộc huyện Tân Ninh. Lấy 30 xã dân Phiên cùng với 8 thôn dân Kinh ở huyện Thuận An, giáp gần đạo Quang Hóa, chia làm 2 tổng, cho lệ thuộc vào huyện Quang Hóa. Tổng đặt 1 cai tổng, chọn dân Kinh người nào mẫn cán cho làm. Hiện số dân Phiên là 1.224 người, gọp với 15 người trong đội Gia hóa, nguyên quán dân Phiên thuộc trong tỉnh hạt, cứ 5 đinh tuyển 1 làm lính, gồm hơn 400 người, dồn làm 4 đội: Nhất, Nhị, Tam, Tứ cơ Gia hóa. Đội, đặt 1 suốt đội, 4 đội trưởng và ngoại ủy đội trưởng, 3 đội lệ thuộc phủ Tây Ninh, 1 đội lệ thuộc huyện Quang Hóa. Lại phái thêm lính tỉnh đóng giữ ở phủ Tây Ninh 2 đội, ở huyện Quang Hóa 1 đội”[11].
Năm 1859, vua Tự Đức một lần nữa có sự thay đổi địa giới hành chính vùng đất Nam kỳ. Triều định chia Nam kỳ làm 3 quận, mỗi quận do một quan Tổng đốc cai trị, dưới sự kiểm soát chung của quan Kinh lược. Theo đó, phủ Tây Ninh gồm 2 huyện Tân Ninh và Quang Hóa thuộc tỉnh Gia Định, quận Định Biên([12]).
Ngày 2-2-1859, Rigault de Genouilly, chỉ huy quân Pháp tiến đánh Gia Định và nhanh chóng chiếm được Nam bộ. Về hành chính, năm 1864, Đô đốc De la Grandière chia miền Đông Nam kỳ làm 7 khu vực: Bà Rịa, Biên Hòa, Cần Giuộc, Mỹ Tho, Sài Gòn – Chợ Lớn, Tân An – Gò Công và Tây Ninh. Ngày 9-11-1864, Đô đốc De la Grandière chuyển chế độ hành chánh Nam kỳ từ quân sự sang dân sự bằng việc thiết lập tòa “Thượng thơ” (Direction de L’Intérieur) cai quản 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ và thiết lập các Sở Tham biện (Inspection, còn gọi là hạt hoặc tiểu khu) do các quan chức người Pháp cai trị. Năm 1865, có các Tham biện: Sài Gòn, Chợ Lớn, Cần Guộc, Tây Ninh (gồm huyện Tân Ninh và Quang Hóa), Gò Công, Tân An, Mỹ Tho, Cai Lậy, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Long Thành, Bảo Chánh, Bà Rịa.
Năm 1867, chính quyền thực dân chia Nam kỳ làm 7 tỉnh với 24 Sở Tham biện. Đối với Tây Ninh, chính quyền thực dân thiết lập hai Sở Tham biện:
Sở Tham biện Tây Ninh gồm châu thành Tây Ninh và huyện Tây Ninh;
Sợ Tham biện Quang Hóa gồm châu thành Trảng Bàng và hai huyện Quang Hóa, Tân Ninh[13].
Ngày 1-1-1868, thực dân Pháp đổi tên Sở Tham biện Quang Hóa thành Sở Tham biện Trảng Bàng. Năm 1871, hai sở tham biện trên được sát nhập lại thành Sở Tham biện Tây Ninh[14].
Những năm sau đó, chính quyền thực dân nhiều lần thực hiện việc tách, nhập và thay đổi về địa giới hành chính Tây Ninh. Năm 1871, Thống đốc Nam kỳ quyết định tách xã Gia Lộc thuộc tổng Hàm Ninh Hạ, Tây Ninh thành hai xã Gia Lộc và Lộc Hưng. Xã Lộc Hưng bao gồm phần đắt nằm giữa Suối Guy và sông Sài Gòn[15].
Năm 1872, Thống đốc Nam kỳ quyết định thành lập xã Phước Mi, thuộc tổng Hạm Ninh Hạ (Tây Ninh)[16]. Và ngày 12-9-1872, ban hành quyết định sát nhập các xã Long Ngân và Long Thuận thuộc tổng Giai Hòa thành xã Long Giang; các xã Vinh Cu và Xuân Son thành xã Vinh Xuân, Khương Ninh và Khương Thạnh thành Ninh Thạnh, Long Thạnh và Thanh Điền thành Long Tiên đặt thuộc tổng Hòa Ninh[17].
Năm 1876, Thống đốc Nam kỳ quyết định chia vùng đất Nam kỳ thành 4 Khu hành chính, do các Trưởng khu hành chính (Administrateur de la circonscription) đứng đầu. Bên dưới, chính quyền thực dân vẫn duy trì các các Sở Tham biện đặt dưới sự cai trị của quan Tham biện Vụ bản địa.
- Khu Sài Gòn gồm: Sài Gòn, Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Biên Hòa và Bà Rịa;
- Khu Mỹ Tho gồm: Mỹ Tho, Tân An, Gò Công và Chợ Lớn
- Khu Vĩnh Long gồm: Vĩnh Long, Bến Tre, Trà Vinh và Sa Đéc;
- Khu Bassac gồm : Châu Đốc, Long Xuyên, Rạch Giá, Trà Ôn và Sóc Trăng[18].
Sau quyết định này, ngày 31-10-1877, Thống đốc Nam kỳ ban hành quyết định phân chia lại các xã của Sở Tham biện Tây Ninh, cụ thể:
An Thanh tách thành hai xã: An Thanh và An Thuon;
Thanh Phước tách thành hai xã: Thanh Phước và Phước Thanh;
Long Dien tách thành hai xã: Long Thanh và Thanh Dien;
Phước Chi tách thành hai xã Phước Chi và Phươc Hưng[19].
Ngày 20-12-1899, chính quyền thực dân Pháp ban hành nghị định đổi “các hạt, tiểu khu trong các Khu hành chính ở Nam kỳ và tại các vùng thuộc sở hữu của Pháp ở Đông Dương” “thành « tỉnh » bắt đầu từ ngày 1-1-1900”. Người đứng đầu tỉnh gọi là Quan cai trị – Chủ tỉnh (Administrateur – Chef de Province)[20]. Theo nghị định này, tiểu khu Tây Ninh được đổi thành tỉnh, trực thuộc Khu Sài Gòn.
BẢNG ĐỐI CHIẾU ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH MIỀN NAM VIỆT NAM (1859-1945)([21])
LỤC TỈNH NAM KỲ (1859) | |||||
Gia Định | Biên Hòa | Định Tường | Vĩnh Long | An Giang | Hà Tiên |
NAM KỲ THỜI PHÁP THUỘC | |||||
Gia Định
Chợ Lớn Tân An Tây Ninh Gò Công Tân Bình |
Biên Hòa
Bà Rịa Thủ Dầu Một Cap-Saint Jacques |
Mỹ Tho | Vĩnh Long
Bến Tre Trà Vinh |
Châu Đốc
Long Xuyên Sa Đéc Sốc Trăng Cần Thơ |
Hà Tiên
Rạch Giá Bặc Liêu
|
Như vậy, trên cơ sở khai phá của các cư dân Việt, từ cuối thế kỷ XVII, các chúa Nguyễn chính thức xác lập chế độ hành chánh ở vùng đất Nam bộ. Tuy nhiên đến năm 1836, dưới triều vua Minh Mạng, địa danh Tây Ninh lần đầu tiên xuất hiện trên bản đồ hành chính Việt Nam. Trong những năm đầu xâm lược Việt Nam, chính quyền thực dân nhiều lần thực hiện thay đổi cấp hành chính Tây Ninh, từ phủ, huyện đến hạt (Sở Tham biện). Đến năm 1900, cùng các địa phương khác ở Nam kỳ, Tây Ninh trở thành đơn vị hành chính cấp tỉnh. Sau đó, dù trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm của lịch sử, nhưng cấp hành chính này vẫn được giữ nguyên cho đến này nay.
Quyết định số 2 ngày 5-1-1876 của Thống đốc Nam kỳ về việc chia vùng đất thuộc địa (Nam kỳ)
thành 4 khu hành chánh
Nghị định ngày 20-12-1899 của Toàn quyền Đông Dương về việc đổi các hạt, tiểu khu trong các Khu hành chánh ở Nam kỳ thành “tỉnh”
[1] Trích “Gia Định thành thông chí”, Nhiều tác giả, 300 câu hỏi – 300 năm Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Tp.HCM,
[2] Đào Văn Hội, Lịch trình hành chánh Nam phần, 1961, vn.1528, TT LTQG II, tr.22
[3] Đào Văn Hội, Lịch trình hành chánh Nam phần, 1961, vn.1528, TT LTQG II, tr.23
[4] Trung tâm Khoa học Xã hội Tp. HCM, Lược sử 300 năm Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh (1698-1998), Nxb Trẻ, tr.38
[5] Viện Sử học, Đại Nam thực lục, tập II, Nxb Giáo dục, tr.79
[6] Đào Văn Hội, Lịch trình hành chánh Nam phần, 1961, vn.1528, TT LTQG II, tr.24
[7] Viện Sử học, Đại Nam thực lục, tập IV, Nxb Giáo dục, tr.988
[8] Viện Sử học, Đại Nam thực lục, tập IV, Nxb Giáo dục, tr.988
[9] Viện Sử học, Đại Nam thực lục, tập IV, Nxb Giáo dục, tr.988
[10] Viện Sử học, Đại Nam thực lục, tập IV, Nxb Giáo dục, tr.989
[11] Viện Sử học, Đại Nam thực lục, tập IV, Nxb Giáo dục, tr.989
[12] Đào Văn Hội, Lịch trình hành chánh Nam phần, 1961, vn.1528, TT LTQG II, tr.24
[13] Đào Văn Hội, Lịch trình hành chánh Nam phần, 1961, vn.1528, TT LTQG II, tr.34
[14] Đào Văn Hội, Lịch trình hành chánh Nam phần, 1961, vn.1528, TT LTQG II, tr.36
[15] Quyết định số 761 ngày 21-10-1871 của Thống đốc Nam kỳ, hồ sơ IA 17/202, phông Phủ Thống đốc Nam kỳ
[16] Quyết định của Thống đốc Nam kỳ năm 1872, hồ sơ IA 17/202, phông Phủ Thống đốc Nam kỳ
[17] Quyết định số 1097 ngày 12-9-1872 của Thống đốc Nam kỳ, hồ sơ IA 17/202, phông Phủ Thống đốc Nam kỳ
[18] Quyết định số 2 ngày 5-1-1876 của Thống đốc Nam kỳ, hồ sơ 2179 (SL), phông Thống đốc Nam kỳ.
[19] Quyết định số 198 ngày 31-10-1877 của Thống đốc Nam kỳ, hồ sơ IA 17/202, phông Phủ Thống đốc Nam kỳ
[20] Công báo Đông Dương năm 1900, số ký hiệu J.70, TT LTQG II, tr.30
[21] Đào Văn Hội, Lịch trình hành chánh Nam phần, 1961, vn.1528, TT LTQG II, tr.38
Tin cùng chuyên mục:
Khó khăn và giải pháp khắc phục trong triển khai nhiệm vụ nộp lưu tài liệu lưu trữ số
Thực trạng triển khai công tác lưu trữ điện tử của Ủy ban Dân tộc
Văn học Sài Gòn 1954-1975 những chuyện bên lề
Sài Gòn 1698-1998 Kiến trúc quy hoạch