Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam đối với Côn Đảo trước năm 1862

QUÁ TRÌNH XÁC LẬP CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM

ĐỐI VỚI CÔN ĐẢO TRƯỚC NĂM 1862

Nguyễn Xuân Hoài – Phạm Thị Huệ

 

Côn Đảo – quần đảo gồm 16 đảo lớn nhỏ với tổng diện tích hơn 77 km2, nằm cách Vũng Tàu 97 hải lý. Là một quần đảo giàu tiềm năng, lại nằm ở vị trí thuận lợi, trên hải trình Âu – Á, Côn Đảo sớm được các lưu dân Việt biết đến. Qua tài liệu lưu trữ và sử sách ghi chép, thì đến thế kỷ XVII, đã có hoạt động khai thác sản vật của cộng đồng dân cư Việt ở quần đảo này. Đó là cơ sở để các chúa Nguyễn trong công cuộc Nam tiến xác lập chủ quyền của Đại Việt đối với Côn Đảo. Quốc sử triều Nguyễn chưa cho biết chính xác thời gian nhà Nguyễn thiết lập chế độ cai trị đối với Côn Đảo. Nhưng ghi chép rất cụ thể về quá trình bảo vệ chủ quyền và hoạt động khai thác các nguồn lợi biển tại Côn Đảo ngay từ những thập niên đầu dựng nghiệp của chúa Nguyễn.

  1. Thời kỳ các chúa Nguyễn

Sách Phủ Biên tạp lục của Lê Quý Đôn viết năm 1776, trên cơ sở những tư liệu của chúa Nguyễn – có thể coi là cuốn sách xưa nhất ở Việt Nam có ghi chép về Côn Đảo, ghi rõ: “Ngày trước thiết lập đội Hoàng Sa…Họ Nguyễn còn thiết lập thêm đội Bắc Hải… Quan trên sai những người trong đội chèo thuyền tư và thuyền câu nhỏ ra Cù lao Côn Lôn ở giữa Bắc Hải… để tìm kiếm, lượm lặt các hạng đại mội, hải ba, đồn ngư (cá heo) lục quý ngư, hải sâm”1.

Trong sách Đại Nam thực lục chính biên, bộ chính sử quan trọng và lớn nhất của nhà Nguyễn do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, trong phần chính biên đệ nhất kỷ, có ghi: Giáp Tuất, Thế Tông Hiếu Vũ Hoàng đế năm thứ 16 (1754): “Buổi quốc sơ đặt đội Hoàng Sa 70 người, lấy dân xã An Vĩnh sung vào, hằng năm, đến tháng 3 thì đi thuyền ra, độ ba đêm ngày thì đến bãi, tìm lượm hóa vật, đến tháng 8 thì về nộp. Lại có đội Bắc Hải, mộ người ở  thôn Tứ Chánh thuộc Bình Thuận hoặc xã Cảnh Dương sung vào, sai đi thuyền nhỏ đến các xứ Bắc Hải, Côn Lôn, để tìm lượm hóa vật; đội này cũng do đội Hoàng Sa kiêm quản”.2

Mộc bản triều Nguyễn – Di sản tư liệu thế giới, sách Đại Nam thực lục tiền biên là phần đầu bộ chính sử của triều Nguyễn, do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn từ năm 1821, khắc in năm 1844, Quyển 7, mặt khắc 21 ghi rõ: năm Nhâm Ngọ, đời chúa Nguyễn Phúc Chu năm thứ 11 (1702), Chúa sai người đi tìm diệt giặc biển tại đảo Côn Lôn: “Giặc biển là người Man An Liệt có 8 chiếc thuyền đến đậu ở đảo Côn Lôn… Trấn thủ dinh Trấn Biên là Trương Phúc Phan đem việc báo lên. Chúa sai Phúc Phan tìm cách trừ bọn ấy”. 3

Cũng trong Mộc bản triều Nguyễn, Quyển 7 – sách Đại Nam thực lục tiền biên, mặt khắc 23 ghi: Quý Mùi, đời Chúa Nguyễn Phúc Chu năm thứ 12 (1703), Chúa sai trọng thưởng người Chà Và và tướng sĩ theo thứ bậc, vì đã có công diệt giặc biển ở Côn Lôn: “Mùa đông, tháng 10, dẹp yên đảng An Liệt. Trước đó, Trấn thủ Trấn Biên Trương Phúc Phan mộ 15 người Chà Và, sai làm kế trá hàng đảng An Liệt để thừa lúc chúng sơ h thì giết. Bọn An Liệt không biết. Ở Côn Lôn hơn một năm không thy Trấn Biên xét hỏi, tự lấy làm đắc chí. Người Chà Và nhân đêm phóng lửa đốt trại, đâm chết nhất ban, nhị ban, bắt được ngũ ban trói lại, còn tam ban, tứ ban thì theo đường biển trốn đi. Phúc Phan nghe tin báo, tức thì sai binh thuyền ra Côn Lôn, thu hết của cải bắt được dâng nộp. Chúa trọng thưởng người Chà Và và tướng sĩ theo thứ bậc”.4

Qua những ghi chép của sử sách, có thể khẳng định, các chúa Nguyễn đã xác lập chủ quyền của Đại Việt đối với Côn Đảo muộn nhất là vào cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII. Mặc dù xác lập chủ quyền từ rất sớm, nhưng trong điều kiện xảy ra chiến tranh liên miên, lại nằm xa đất liền, nên đối với Côn Đảo, các chúa Nguyễn chỉ chú trọng khai thác sản vật. Mà chưa thể thiết lập thế chế hành chính để cai quản sinh hoạt trên đảo. Theo các sử liệu tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia II, phải đến những thập niên cuối thế kỷ XVIII, chúa Nguyễn mới thiết lập được những cơ sở hành chính đầu tiên đối với quần đảo này. Đó là vào năm 1773, Nguyễn Ánh trên đường đào tẩu khỏi sự truy lùng của quân Tây Sơn, đã đưa hoàng tộc cùng với 100 gia đình tùy tướng, gia nhân tới Côn Đảo lập ra 3 làng là An Hải, An Hội, Cỏ Ống và chính thức đặt tên cho quần đảo Côn Đảo là Côn Lôn hay Côn Nôn[1], đặt dưới sự quản hạt của tỉnh Hà Tiên.

Những năm sau đó, trên bước đường gầy dựng sự nghiệp, Nguyến Ánh nhiều lần phải nương náu tại Côn Đảo, tránh sự truy lùng của quân Tây Sơn và đều được sử sách triều Nguyễn ghi chép cụ thể. Như:

Năm Quý Mão, Thế tổ Cao Hoàng đế năm thứ 4 (1783): “Tháng 6, vua đóng ở hòn Điệp Thạch (hòn Đá Chồng) thuộc Phú Quốc. Thống suất giặc là Phan Tiến Thận thình lình đem quân đến. Cai cơ Lê Phúc Điển xin mặc áo ngự mà đứng ở đầu thuyền. Giặc tranh nhau đến bắt. Vua bèn đi thuyền khác ra đảo Côn Lôn”.5 Tại Côn Đảo, Nguyễn Ánh tiếp tục bị quân Tây Sơn truy đổi. Sự việc này được sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ ghi chép rõ: Quý Mão (1783) – Lê Cảnh Hưng năm 44, “Mùa thu, tháng 7, Nguyễn Văn Huệ nghe tin vua (Gia Long – Thế tổ Cao Hoàng đế) ở đảo Côn Lôn, sai phò mã Trương Văn Đa đem hết thủy binh đến vây ba vòng, tình thế rất nguy cấp” 6.

Năm Đinh Mùi (1787) – Lê Chiêu Tông năm thứ 1, người nước Thanh đến cướp ở đảo Côn Lôn xin được quy phục: “Thuyền vua (Gia Long – Thế tổ Cao Hoàng đế) đến đảo Cổ Cốt. Người Thanh là Hà Hỷ Văn (người đảng Bạch Liên giáo ở Tứ Xuyên nước Thanh, tự xưng là Thiên Địa hội, cướp bóc ở min Mân Vit), đem binh thuyền về theo. Hỷ Văn lúc đầu ở đảo Côn Lôn, ý muốn theo về giúp. Vua nghe tin, sai Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Thái Nguyên đến tiếp. Hỷ Văn đem quân đi theo, nhưng vì gió bão nên không đến nơi được. Tới nay mới đến bái yết, được trao chức Quản tuần Hải đô dinh Đại tướng quân. Những người thuộc hạ là bọn Lương Văn Anh, Chu Viễn Quyền, Trương Bát Quan, cả thảy 10 người được trao các chức Khâm sai tổng binh, thống binh, phi kỵ úy”.7

Qua những năm cuối của thế kỷ XVIII, nhân nội bộ nhà Tây Sơn lục đục, phía Bắc quân Thanh lâm le xâm lược, Nguyễn Ánh trở về Gia Định nắm quyền cai quản vùng đất phía Nam Đại Việt. Đối với Côn Đảo, để tri ân những ngày tháng nương náu tại đây, Nguyễn Ánh thực thi một số biện phát nhằm phát triển đảo. Trong đó có việc, vào năm Canh Tuất (1790), năm thứ 11, đời Thế tổ Cao Hoàng đế, Nguyễn Ánh: “Sai nuôi ngựa nhà nước ở đảo Côn Lôn”8. Và đến năm Ất Mão (1795), năm thứ 16 Thế tổ Cao Hoàng đế, lứa ngựa đầu tiên trưởng thành, Nguyễn Ánh “sai đội Nội Mã ra đảo Côn Lôn chọn ngựa công về dâng”.9

Nhìn chung, qua các sử liệu còn đến ngày nay, có thể khẳng định, Côn Đảo thuộc chủ quyền Việt Nam muộn nhất là vào cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII. Từ đó cho đến hết thời kỳ nhà Chúa, các chúa Nguyễn đã hành xử một cách đầy đủ về chủ quyền đối của Đại Việt đối với Côn Đảo, trên các phương diện chống chiếm đóng, xác lập thiết chế cai quản và khai thác phát triển kinh tế. Sử liệu tìm được đến nay cũng khẳng định: Côn Đảo được biết đến với tư cách là một đơn vị hành chính là vào cuối thế kỷ XVIII. Cụ thể là vào năm 1773, khi Nguyễn Ánh thiết lập 3 làng An Hải, An Hội, Cỏ Ống và đặt tên cho quần đảo Côn Đảo là Côn Lôn. Đây có thể được coi là mốc thời gian đánh dấu sự ra đời của Côn Đảo.

  1. Dưới vương triều Nguyễn

Từ sau khi lên ngôi (1802), vị vua đầu của triều Nguyễn và các vua kế vị sau đó tiếp tục triển khai hàng loạt các biện pháp thực thi chủ quyền ở Côn Đảo.

  1. a) Tăng cường phòng thủ, bảo đảm an ninh, giữ gìn chủ quyền

Ất Sửu, Gia Long năm thứ 4 (1805): “Giặc biển Chà Và cướp bóc ở ngoài biển, dân Côn Lôn bị hại. Quan canh giữ xin hạ lệnh cho các thuyền công và thuyền tư đều được sửa sang khí giới để phòng bị. Vua y cho.”10

Nhâm Thìn, năm Minh Mạng thứ 13 (1832): “Gia Định có giặc biển Chà Và lén lút nổi lên ở tấn phận Long Hưng thuộc Vĩnh Long, cướp bóc bắt người đem đi. Quan Trấn thủ Lê Văn Nghĩa thân đem binh thuyền đuổi bắt. Việc đến tai vua, vua lại sai Trấn thủ Biên Hòa là Phạm Hữu Tâm, thự Trấn thủ Phiên An là Trần Hữu Thăng, đều đem binh thuyền hội tiễu. Giặc liền ra đảo Côn Lôn thuộc Phiên An, đón cướp các thuyền buôn, lại lên bờ đốt nhà, cướp của. Quan thành Gia Định vạch tên Trần Hữu Thăng mà tham hặc. Vua chuẩn cho cách lưu, hẹn ngày phải bắt được giặc.

Nhân đó vua dụ: Côn Lôn thủ và Hà Tiên Phú Quốc thủ đều là những nơi xung yếu, dân ở đông đúc, thế mà thường có giặc biển ẩn hiện. Liền truyền dụ cho quan thành chọn đất 2 chỗ thủ ấy, xây đặt pháo đài, liệu cấp súng đạn, khí giới, thuyền bè, phái quân đóng giữ. Những cư dân cũng cấp cho khí giới để cùng phòng giữ. Lại chuyển sức cho 5 trấn trong thành hạt, ra lệnh cho các làng sở tại ven biển đều sẵn sàng thuyền bè khí giới, nếu thấy thuyền giặc đến gần bờ, tức thì cùng nhau tiếp ứng góp sức đánh bắt.”11

Quý Tỵ, năm Minh Mạng thứ 14 (1833): “Tổng đốc An – Biên Nguyễn Văn Quế, tâu: “Các tấn sở, thủ sở thuộc tỉnh, số quân quá ít mà danh hiệu để gọi lại rất phức tạp. Vậy xin đổi định: trong đó có 2 tấn sở và thủ sở là Cần Giờ và Côn Lôn, số quân nhiều hơn mà việc xét hỏi thuyền tàu, canh phòng bờ biển đều là những việc trọng yếu, vậy ba thuyền Bình nhất, Bình nhị, Bình tam thuộc đội Bình hải, ở tấn sở Cần Giờ, xin đổi là đội Phiến hải. Ba thuyền Tiệp nhất, Tiệp nhị, Tiệp tam thuộc đội Tân hiệp ở thủ sở Côn Lôn xin đổi làm đội An hải. Mỗi đội đặt một Chánh đội trưởng suất đội, theo viên sử ngự sai phái… Vua chuẩn y lời tâu.”12

Đồng thời với việc củng cố các đơn vị bố phòng, hợp nhất các thuyền để lập đội An Hải, đặt chức Chánh đội trưởng để cai quản, triền Nguyễn còn thực thi chính sách “ngụ binh ư nông” kết hợp việc phòng thủ bảo vệ đảo và khai hoang phát triển nông nghiệp.

Bính Thân, Minh Mạng năm thứ 17 (1836), mùa xuân, tháng hai. Vua ban dụ: “Xây dựng đồn bảo Thanh Hải và pháo đài Thanh Hải ở đảo Côn Lôn thuộc Gia Định (bốn mặt đồn bảo đều dài 12 trượng, cao 5 thước, chân rộng 6 thước 3 tấc. Đằng trước và đằng sau đều mở một cửa). Pháo đài xây ở phía nam đồn bảo. Sai quan  tỉnh bắt lính và thuê dân tất cả 500 người để làm việc. Khi làm xong, bộ Binh tâu rằng: “Đảo ấy có nhiều núi nổi lên từng dãy từng lớp, tàu thuyền có thể đỗ lại yên ổn. Lại có mối lợi là nhiều cá, tôm, ruộng đất màu mỡ, thủy thổ lành, thực là hình thế đẹp ở cương giới về phần biển. Chỉ phải cái là hẻo lánh, xa xôi, hằng năm khoảng xuân sang hạ, thường có thuyền giặc Chà Và thừa cơ  lén lút nổi dậy, làm ngăn trở thuyền buôn đi lại. Nhân dân sở tại thưa ít, chẳng làm thế nào được. Vậy xin phái một suất đội và 50 lính thuộc tỉnh, cấp cho thuyền và khí giới đến đóng giữ, mỗi năm thay phiên một lần. Tiền và lương thì dự trữ đủ chi dùng trong một năm. Nơi ấy lại có nhiều đất bỏ hoang, có thể cày cấy được. Quân lính sau những khi làm việc tuần phòng hải phận lúc nhàn rỗi, sức cho khẩn hoang trồng cấy, và chiêu mộ dân nghèo cùng ở, cho sống bằng sức mình, còn trâu cày, nông cụ thì do nhà nước cấp phát cho. Như thế, có lính để phòng thủ, có ruộng để cày cấy, giặc biển không dám lại đến, thuyền buôn ngày một đông nhiều, sau vài năm tất thành một nơi vui vẻ, mà việc phòng giữ mặt biển sẽ bền vững được”.Vua chuẩn y lời tâu. Lại thấy nơi ấy có nhiều yến sào, chuẩn cho biền binh trú phòng đi lấy để nộp, sẽ liệu tính giá trả tiền.”13

Đinh Dậu, Minh Mạng năm thứ 18 (1837): “Quân đóng ở Côn Lôn thuộc Gia Định 6 người trước gọi là đồn An Hải, nay đổi làm quân đồn Côn Lôn.”14

Năm Canh Tý, Minh Mạng năm thứ 21 (1840), Vua ra chính sách phòng thủ tại những nơi xung yếu Côn Lôn, Phú Quốc: “Kể ra, biết tự trị thì mạnh, có phòng bị thì không lo. Nay cửa biển Đà Nẵng ở  Quảng Nam, đã đặt thêm pháo đài phòng Hải; cửa biển Thị Nại ở Bình Định lại mới xây pháo đài Hổ Cơ, để giữ chỗ hiểm yếu; còn đảo Côn Lôn ở Vĩnh Long, đảo Phú Quốc ở Hà Tiên, đều có đặt đồn bảo chia phái lính thú tuần phòng, để răn ngừa sự bất trắc. Như thế, ta ngăn giữ bờ biển đã có cái thế làm cho kẻ xấu đáng sợ mà không thể xâm phạm được. Việc võ bị mà chỉnh đốn, thì người ngoài trông thấy cũng tiêu tan lòng tà. Không chỉ người Tây dương cách trở xa xôi không dám nhằm thẳng vào nước ta, mà nước mạnh láng giềng tiếp giáp cõi đất, cũng không dám manh tâm dòm ngó nữa”.15

Mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ tam kỷ, quyển 19, mặt khắc 21 và 22 có ghi: Nhâm Dần, Thiệu Trị năm thứ 2 (1842), Vua thưởng công cho những người giết được giặc Thanh vào đồn Côn Lôn quấy nhiễu: “Tại hạt Vĩnh Long có 4 chiếc thuyền giặc Thanh vào đồn Côn Lôn quấy nhiễu. Những viên đóng giữ ở đấy là Suất đội, Bang biện phó cơ Trương Văn Tỵ, thí sai Thủ ngự Nguyễn Văn Đăng đem binh ra đánh, thuyền giặc vội rút vào cửa Đại Đàm đỗ lại. Quan tỉnh là Lê Khánh Trinh sai Phó lãnh binh Vũ Đình Đàm đem binh thuyền đi đánh. Ngay sau đó, thuyền của Đình Đàm bị gió cản trở, phải lui đỗ lại. Bọn giặc Thanh lên bộ quấy rối, lại đuổi theo bọn biền binh đi lấy tổ yến của ta. Bọn Trương Văn Tỵ đem lính đồn và dân nơi ấy chỉ có 80 người, ra sức đánh giết, chém được 2 đầu giặc, bắn chết 12 tên, bắt được 1 chiếc thuyền giặc. Bọn giặc sợ oai, trốn xa. Vua được tin thắng trận, cho Trương Văn Tỵ thăng thụ Phó quản cơ, Nguyễn Văn Đăng bổ thụ Thủ ngự; thưởng chung cho cả bọn binh dân 100 quan tiền. Những người chém được đầu giặc đều thưởng tiền 10 quan và thưởng 1 chiếc ngân bài có chữ “Thưởng công”; bắn chết được giặc thì cứ mỗi tên giặc chết được thưởng 3 quan. Lại thấy đồn ấy ở chỗ hải đảo hẻo lánh, cấp thêm cho 2 cỗ pháo Quá sơn, 10 khẩu điểu sang, 20 khẩu súng trường”.16

Mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ tứ kỷ, quyển 6, mặt khắc 17 có ghi: năm Tân Hợi, đời vua Tự Đức thứ 4 (1851), Vua giáng chức những người canh phòng sơ suất tại bảo Côn Lôn: “10 chiếc thuyền của giặc đến cướp bảo Côn Lôn (thuộc tỉnh Vĩnh Long). Bọn tấn thủ coi bảo ấy có lỗi về canh phòng sơ suất đều bị giáng chức. Rồi sai tỉnh thần phái đến cùng biền binh ở bảo ấy đàn áp. Truyền chỉ cho Kinh lược sứ Nam Kỳ là Nguyễn Tri Phương, Phan Thanh Giản tùy cơ mà điều khiển…”17

b)Trên lĩnh vực hành chính, kinh tế:

Ngay sau khi lên ngôi Vua Gia Long đã cho tiến hành lập sổ bộ để đăng ký quản lý dân binh, ruộng đất suốt từ Bắc chí Nam, trong đó có cả việc lập sổ ở Côn Đảo. Theo các ghi chép trong Châu bản triều Nguyễn – tài liệu có độ tin cậy cao nhất khi nghiên cứu về triều Nguyễn cho biết: “Ngày 17 tháng 6 năm Gia Long thứ 4 (1805) … theo lệ mỗi năm tu soạn sổ sách hai lần đệ nạp tại trấn. Nay chuẩn cho Khâm sai Cai cơ thuộc nội đội Tân Tiệp đạo Côn Lôn là Đức Nhuận Hầu tâu xin mỗi năm vào kỳ tháng 4 chỉ lập sổ một lần để biết tổng số quân dân”.18

Qua triều Minh Mạng, thực hiện công cuộc cải cách hành chính toàn quốc, đối với Côn Lôn – trước thuộc sự quản hạt của Hà Tiên, đến năm 1839, nhà vua chuyển đặt thuộc quản hạt Vĩnh Long. Sách Đại Nam Thực Lục viết: Kỷ Hợi, Minh Mạng năm thứ 20 (1839) Bố Chính Gia Định là Hoàng Quýnh đi dò xét thành Trấn Tây trở về, vào chầu. Vua hỏi về tình hình quận chúa, quan phiên và binh, dân, cùng là tin tức động tĩnh của nước Xiêm…Vua lại bàn đến hình thế sông núi ở Gia Định. Quýnh nhân nói: Đảo Côn Lôn cách Gia Định xa mà đến Vĩnh Long thì gần, nghĩ nên cho đổi thuộc về tỉnh này cho tiện…Vua cho là phải…Cho binh, dân, đài, bảo ở Côn Lôn lệ thuộc về quản hạt Vĩnh Long”19. Sự kiện này cũng được khẳng định qua những ghi chép trong Mộc bản triều Nguyễn. Mộc bản triều Nguyễn sách Đại Nam thực lục tại quyển 204, mặt khắc 13 và 14 có ghi: năm Kỷ Hợi, đời vua Minh Mạng thứ 20 (1839), Vua cho binh, dân, đài, bảo ở Côn Lôn lệ thuộc hạt Vĩnh Long: “Vua lại bàn đến hình thế sông núi ở Gia Định, Quýnh nhân nói: đảo Côn Lôn cách Gia Định xa mà đến Vĩnh Long thì gần, nghĩ nên cho đổi thuộc về tỉnh này cho tiện. Cho binh, dân, đài, bảo ở Côn Lôn lệ thuộc về quản hạt Vĩnh Long”.20

Cùng với hoạt động tăng cường các biện pháp canh giữ đảo, ổn định về mặt hành chính triều Nguyễn cho thực thi ngay việc khai thác các nguồn lợi của đảo:

Canh Thìn, Minh Mạng năm thứ nhất (1820): “Chuẩn cho các đạo Côn Lôn và Long Xuyên thành Gia Định, thay nộp thuế yến sào bằng tiền. (1 cân yến sào nộp tiền 50 quan).” 21

Ngày 16 tháng 4 năm Minh Mạng 2 (1821): “Quản Đạo đạo Cần Giờ Trần Công Hiếu tâu: Chiếc ghe của đạo Côn Lôn do thành Gia Định phái đi chở cá và sò về Kinh phụng nạp, hiện đã xuất cảng”. 22

Kỷ Sửu, năm Minh Mạng thứ 10 (1829), mùa hạ, tháng 6: “Thành thần Gia Định tâu rằng: “Thuế yến sào ở đảo Côn Lôn, trấn Phiên An và đảo Phú Quốc, trấn Hà Tiên thuộc hạt thành, thường thiếu ngạch. Xin từ nay hằng năm đầu xuân, chim yến làm tổ, phái viên của thành hội đồng với quản thủ sở tại, đến nơi khám điểm đăng ký rõ ràng, đến kỳ thì lính các đội Tân tiệp, Thanh châu, đi nhặt lấy như số, cân lường đem nộp. Đợi 3 năm, thống kê số yến thu được, lấy số trung bình làm định ngạch. Phái viên và viên binh coi giữ dám thông đồng giấu bớt từ 1 tổ trở lên đều chiếu tang, xử nặng vào luật “uổng pháp”.

Mậu Tuất, năm Minh Mạng thứ 19 (1838), lấy tổ yến ở đảo Côn Lôn: “Sai Ngự sử Định  Biên là Trần Thiện, tứ đẳng thị vệ là Lê Văn Hợi, cai đội là Hồ Văn Hòa (nguyên cai quản h lấy tổ yến ở 3 tỉnh Quảng Nam, Bình Định, Khánh Hòa) đem 5 người ở hộ lấy tổ yến, trách cứ tỉnh Gia Định phái bắt binh thuyền đưa đến đảo Côn Lôn cùng với lính đồn đi lấy tổ yến. Côn Lôn là nơi sẵn nhiều tổ yến, trước kia chuẩn định lính đồn 50 người hàng năm phải lấy tổ yến nộp mỗi người 6 lạng, đã 2 năm tất cả chỉ được 3 cân, hỏi thì lính đồn bẩm: chim yến làm tổ trong hang cùng, hốc thẳm khó lấy…”.23

Năm Kỷ Hợi, đời vua Minh Mạng thứ 20 (1839), đưa binh lính đến đảo Côn Lôn, Phú Quốc tìm lượm sản vật, … tổ yến, trầm hương: “Phái viên là Ngự sử Trần Thiện thấy Yến hộ binh đi lấy tổ yến ở đảo Côn Lôn không được bao nhiêu, dâng sớ hặc là bất lực (nơi này các đảo có 16 hang yến, lấy được 448 ổ). Vua đặc miễn tội cho, chuẩn cho các nơi sản ra tổ yến, hàng năm bắt binh lính ở đảo đi kiếm về nộp, nếu dám ẩn giấu thì trị tội. Thiện lại đi đảo Phú Quốc thuộc Hà Tiên xét hỏi về sản vật trầm hương, mua được 1 lạng về nộp. Vua bèn chuẩn y lời bộ Hộ bàn, lấy tháng giêng sang năm bắt đầu, do tỉnh thần liệu phái biền binh các đảo sở thuộc, người nào am hiểu việc tìm trầm hương thì đi lấy trầm, lấy được bao nhiêu, cứ tháng 3 một lần báo về bộ. Đến cuối năm, đem cả tình hình việc tìm kiếm khó dễ thế nào, làm tờ tâu, chờ Chỉ tuân hành”.24

Ngoài việc khai thác nguồn lợi hải sản, yến sào có sẵn vua Minh Mạng đặc biệt quan tâm đến việc khẩn hoang, phát triển nông nghiệp.

Canh Tý, Minh Mạng năm thứ 21 (1840): “Vua cho là bảo Côn Lôn tỉnh Vĩnh Long, đất rộng tốt màu mà dân ở thưa thớt. Dụ cho quan tỉnh sức bọn biền binh trú phòng, gia sức khai khẩn, đều lượng cấp cho trâu cày, nông cụ và thóc giống tùy theo thổ nghi mà gieo trồng lúa, khoai, đậu để ăn dùng.

Lại truyền dụ 5 tỉnh là Long, Tường, Định, Biên và An Giang, đều mộ dân trong hạt, không cứ trai gái già trẻ, nếu ai tình nguyện đến ở bảo ấy, thì cấp tiền vốn mỗi người 10 quan hoặc năm ba quan.

Tỉnh Vĩnh Long nhân tâu nói: trước đây biền binh Gia Định đến trú phòng ở bảo ấy, cứ tháng 4 phái đi, đến mùa đông thì rút về. Nay ở bảo ấy còn có tiền gạo quân lương để lại, những biền binh phái đến trú phòng xin từ nay về sau cứ 6 tháng 1 lần thay đổi, cắt lượt từng phiên mà đóng giữ. Vua y cho.

Vua lại cho là: hải phận của bảo ấy là nơi thường có các thuyền đi lại. Sắc cho lính bảo ấy bất kỳ đi do thám, lúc hai mùa đông xuân giáp nhau, thuyền công chở đi, đến mùa hạ trở về, cùng là thấy có thuyền khác đi qua, thành đoàn 3, 5 chiếc giống như thuyền quân thì lập tức báo tỉnh, thượng khẩn tư về bộ, cho được chóng biết tin.

Cho làm xưởng Thủy sư lợp ngói ở bến Thành Phúc (xưởng một dãy 31 gian, làm gác bằng ván, trên để buồm dây, dưới chứa thuyền gỗ sam, thùng chứa nước). Vua dụ bộ binh rằng: “15 vệ thủy sư, nên chọn người tài lặn, ai lặn một hơi đi được một quãng đường vừa mặt tầm tên nỏ bắn tới, trẫm sẽ thưởng hậu, để đợi khi có việc dùng đến. Nếu gặp thuyền giặc, cho nó lặn xuống nước đến tận thuyền giặc, lấy lửa mà đốt, cái chất nhựa trám xảm ở ngoài thuyền, hơi bắt lửa thuốc súng thế tất cháy lan, không thuyền nào không tan. Còn như bơi trên mặt nước mà muốn lấy lửa đốt thuyền giặc, như cách hỏa công ở tập “Trù hải”, há chẳng bị giặc bắn chết, đốt thế nào được thuyền giặc.” 25

Minh Mạng năm thứ 21 (1840): “Tỉnh thần Vĩnh Long tâu nói: binh dân ở đảo Côn Lôn thuộc hạt ấy, số người khá nhiều (205 người), cùng với số tù phạm tiết thứ phát vãng đến (210 người), gián hoặc có người đã mãn hạn, theo lệ vào sổ đinh. Xin cho trong số binh dân ấy lựa lấy 50 người, đặt làm một đội Thanh hải để sai phái việc công, và hằng năm sai đi lấy tổ yến để nộp; còn thì cho cùng với tù phạm đã lệ thuộc vào sổ đặt làm thôn An Hải. Duy xét ra điền thổ ở đảo không có mấy (binh dân trước đã khai khẩn thành điền là 150 mẫu, đất vườn, trồng cau hơn 8 mẫu, đất trồng khoai đậu hơn 21 mẫu. Về tù phạm, mới khẩn thành điền hơn 23 mẫu còn thì bỏ hoang, rừng rậm có thể khai hoang cày cấy được là hơn 180 mẫu), mà nơi dân ở thì cơ chỉ (dựng nền xây móng) chưa thành. Về đinh điền theo lệ nên thu thuế thế nào chưa dám khinh suất nghĩ bàn.

 Vua dụ xuống: “Chuẩn cho gia ơn được thu thuế mãi mãi”.26

Để giữ vững chủ quyền và phát triển kinh tế Côn Đảo, triều Nguyễn còn thực hiện chính sách di dân tích cực, chiêu mộ dân các nơi ra đảo khai hoang xây dựng kinh tế tạo điều kiện cho mọi hạng dân từ tù mãn hạn đến binh lính, dân chúng nếu có nguyện vọng đều được ra đảo sinh sống, được chu cấp tiền bạc, trâu bò, dụng cụ lao động, con giống, cây giống, … đồng thời triều đình còn dự trữ lương ăn để chu cấp kịp thời cho dân binh khi hữu sự.

Bản khắc Sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, quyển 40, mặt khắc 16 và 17 có ghi: Canh Tý, Minh Mạng năm thứ 21 (1840), khai khẩn đất ở Côn Lôn: “Năm thứ 21 (1840), xuống Dụ rằng: đảo Côn Lôn thuộc tỉnh Vĩnh Long, đất rộng và tốt, có thể cày cấy trồng trọt được, mà dân cư còn thưa, đã xuống Dụ cho biền binh đóng giữ ở đảo ấy ngày thường không có việc gì, phải đem sức khai khẩn, nhiều lần lại đem các tù phạm án nhẹ, tháo bỏ xiềng khóa đưa đến ở đấy, cho làm ăn sinh sống, chắc hiện nay nhân dân dần dần nhiều thêm, nên chiểu cấp trâu cày, đồ làm ruộng của công, cho được nhờ vả, vậy quan tỉnh ấy phải chi ngay tiền kho công ra, xem xét mua sắm các thứ trâu cày, đồ làm ruộng và thóc để gieo mạ, và nên chở đến đảo ấy giao cho quan ở đồn ấy nhận lĩnh, xét cấp cho lính và dân, tùy theo địa lợi gieo trồng khoai, đậu để giúp cho việc ăn dùng; lại cho các tỉnh Vĩnh Long, Định Tường, Biên Hòa, An Giang đều phải xét hỏi trong hạt như có dân góa vợ, góa chồng, mồ côi, người già không có con, nghèo thiếu không nhờ vào đâu được, người nào nếu tình nguyện đi tới đảo ấy làm ăn mưu sống, thì không cứ đàn ông, đàn bà, người già, người trẻ, và người nào muốn mang theo vợ con cùng đi, thì đều cho, nhưng do quan các tỉnh ấy xét cấp cho mỗi người tiền là 10 quan, hoặc năm ba quan làm vốn; trong đó người nào hiện còn là dân tráng, phải chịu đi lính và lao dịch ở quê của người ấy đều cho được miễn. Việc chiêu mộ cốt phải thuận theo lòng người, không được cưỡng ép, tỉnh nào mộ được bao nhiêu người giao cả cho thuyền máy ở Vĩnh Long tải đi, giao cho viên ở đồn ấy lại phải quan tâm chiếu cố, cốt mong đất đai ngày càng mở mang, cư dân ngày càng phồn thịnh, để cho hải đảo xa xôi dần dần thành chỗ đất vui sống.

Lại xuống Dụ rằng: đảo Côn Lôn ở Vĩnh Long, mới bắt đầu khai khẩn, mở mang, nguồn sống của dân ở đấy chưa nhiều, trước đã xuống Dụ cho quan tỉnh ấy mua sắm trâu cày, đồ làm ruộng, thóc giống gieo mạ, giao cho viên biên đóng giữ ấy, lượng cấp cho nhân dân trong đảo ở đấy cày và bừa, cho đến gia súc như dê, lợn, gà, chó, cũng đặt giá mua, giao cho dân chăn nuôi thêm nhiều, để giúp lương thực cho dân; lại nhiều lần đem các tù phạm án nhẹ, tháo bỏ xiềng khóa giao phó đến đó làm ăn sinh sống, mong cho dân đến ở ngày càng nhiều, ruộng đất ngày càng mở mang. Nay cử viên Thị vệ phái đến thăm xem ở đảo ấy về báo, dân ở hiện tại trong đảo, chỉ đến 200 người, phần nhiều là tù phạm đưa ra, mà ruộng hiện đã khai khẩn mới được 160 mẫu, gạo chưa được nhiều lắm, xét tình hình ấy thì ruộng cấy được còn ít, sự ăn tiêu của nhân dân không khỏi gieo neo, lẽ ra phải tích trữ trước để phòng cấp phát, vậy cho quan tỉnh Vĩnh Long chi xuất gạo ở kho tỉnh ấy 1000 phương, nhân tiện vận tải đến giao cho đồn ấy lĩnh nhận, làm lên kho tạm để chứa, đợi đến mùa thu, mùa đông, lương thực của dân nếu không đủ, do quan tỉnh ấy làm sớ tâu lên, chiểu theo số dân, số tù hiện tại, mà xét đem cấp phát lương tháng, để giúp cho việc ăn tiêu hàng ngày, quan tỉnh ấy cần phải quan tâm xem xét, rồi theo kỳ hạn phái viên hiện sở tại hoặc Thông phán, Kinh lịch thuộc tỉnh ấy, đi tới đảo ấy thân đến khuyên bảo giúp đỡ, trong đó chỗ nào cây ở rừng hiện đã to lớn, có thể dùng làm nhà cửa, thuyền bè được, thì để lại như cũ, không nên chặt, còn phàm chỗ bụi rậm đất hoang, sẽ sức cho dân binh tù phạm hết sức khai phá tùy chỗ trồng trọt lúa thóc, khoai đậu, để giúp cho ăn dùng, cốt mong đất không chỗ bỏ hoang, người có lương thừa, cho hải đảo xa xôi, dần dần thành đất vui”.27

Có thể nói, qua tài liệu Châu bản, Mộc bản triều Nguyễn – Di sản tư liệu thế giới và một số tư liệu khác cho thấy nhà nước Việt Nam đã thực thi chủ quyền của mình ở Côn Đảo cách đây hơn 300 năm, dưới các hình thức và biện pháp khác nhau như vãng xét, kiểm tra, khai thác hải sản, dựng pháo đài, xây đồn canh giữ, chiêu mộ dân chúng ở đất liền đưa ra đảo để khai khẩn đất đai, phát triển nông nghiệp, kết hợp xây dựng kinh tế với việc phòng thủ, bảo vệ đảo thực hiện chính sách “ngụ binh ư nông”. Đây là những việc trọng yếu ở nơi quan yếu của đất nước mà người xưa đã từng làm.

Bằng các chính sách tích cực, trong nửa đầu thế kỷ XIX, triều Nguyễn không những đã bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam đối với Côn Đảo. Mà còn tạo ra các điều kiện quan trọng, thúc đẩy quá trình phát triển phồn thịnh của Côn Đảo. Tuy nhiên, từ nửa cuối thế kỷ XIX, triều Nguyễn rơi vào thời kỳ khủng hoảng đã không còn đủ sức bảo vệ đất nước, cũng như Côn Đảo nói riêng. Để đến năm 1861, sau khi chiếm xong Gia Định, thực dân Pháp đưa quân chiếm đóng Côn Đảo. Sau đó, bằng Hiệp ước Nhâm Tuất ngày 5-6-1862, ép triều đình nhà Nguyễn nhượng 3 tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường và quần đảo Côn Lôn, thực dân Pháp “hợp pháp hóa” việc cai trị Côn Đảo – mở đầu cho hơn một thế kỷ Côn Đảo chìm trong đêm trường của “địa ngục trần gian”.

Tài liệu tham khảo:

1: Phủ Biên tạp lục, Lê Quý Đôn, Tập 1, Tủ sách cổ văn, văn bản dịch thuật – Sài Gòn 1972, tr.212.

2: Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện sử học, Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 1, Nxb Giáo dục (2004), tr.164.

3: Hồ sơ số H28/8 – Mộc bản triều Nguyễn – Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV.

4: Hồ sơ số H28/8 – Mộc bản triều Nguyễn – Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV.

5: Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện sử học, Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 1, Nxb Giáo dục (2004), tr.217.

6: Hồ sơ số H21/3 – Mộc bản triều Nguyễn – Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV.

7: Hồ sơ số H21/4 – Mộc bản triều Nguyễn – Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV.

8: Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện sử học, Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 1, Nxb Giáo dục (2004), tr.266.

9: Hồ sơ số H21/9 – Mộc bản triều Nguyễn – Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV.

10:Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện sử học, Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 1, Nxb Giáo dục (2004), tr.634.

11: Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện sử học, Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 3, Nxb Giáo dục (2004), tr.384.

12: Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện sử học, Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại

13: Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện sử học, Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 4, Nxb Giáo dục (2004), tr.872.

14: Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện sử học, Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 5, Nxb Giáo dục (2004), tr.538.

15: Hồ sơ số H22/219  – Mộc bản triều Nguyễn – Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV.

16: Hồ sơ số H23/20  – Mộc bản triều Nguyễn – Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV.

17: Hồ sơ số H24/7  – Mộc bản triều Nguyễn – Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV.

18: Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước, Mục lục Châu bản triều Nguyễn, Tập 1, Nxb Văn hóa Thông tin (2010), tr.158.

19:Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện sử học, Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 5 Nxb Giáo dục (2004), tr.538.

20: Hồ sơ số H22/205 – Mộc bản triều Nguyễn – Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV

21: Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện sử học, Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 2, Nxb Giáo dục (2004), tr.860, 861.

22: Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước, Mục lục Châu bản triều Nguyễn, Tập 1, Nxb Văn hóa Thông tin (2010), tr.724.

23: Hồ sơ số H22/198 – Mộc bản triều Nguyễn – Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV.

24: Hồ sơ số H22/204 – Mộc bản triều Nguyễn – Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV.

25: Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện sử học, Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 5, Nxb Giáo dục (2004), tr.658, 659.

 26: Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện sử học, Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 5, Nxb Giáo dục (2004), tr.837.

27: Hồ sơ số H48/40  – Mộc bản triều Nguyễn – Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV.

 

 

[1] Tài liệu về tỉnh Côn Sơn, hồ sơ 1892, phông ĐICH, Trung tâm Lưu trữ quốc gia II

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *