1. Thay đổi địa giới hành chính
Năm 1954, Hiệp định Genève về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết. Theo các điều khoản của Hiệp định, đất nước ta bị chia cắt làm hai miền Nam – Bắc, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời, chờ hai năm sau thực hiện tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Miền Nam Việt Nam tạm thời đặt dưới sự quản lý của chính quyền ngụy Sài Gòn, do Ngô Đình Diệm đứng đầu. Tuy nhiên với dã tâm biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, Mỹ – Diệm từng bước chối bỏ Hiệp định và xây dựng ở miền Nam Việt Nam một chính quyền tay sai mạnh. Cùng với quá trình phát triển của chế độ tay sai thân Mỹ, chính quyền Ngô Đình Diệm liên tục thực hiện thay đổi bộ máy hành chính, theo đó địa giới hành chính tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cũng biến đổi theo.
Tuy nhiên, trong những năm đầu, Ngô Đình Diệm giữ nguyên hệ thống hành chính như thời kỳ thực dân Pháp. Lãnh thổ Việt Nam được chia làm ba vùng là Nam Việt, Trung Việt và Bắc Việt. Trong đó lãnh thổ miền Nam Việt Nam bao gồm toàn bộ vùng Nam Việt, Cao Nguyên miền Nam và một phần Trung Việt. Theo địa giới hành chính này, Bà Rịa – Vũng Tàu là một tỉnh bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa, đặt trực thuộc Nam Việt.
Đến cuối năm 1955, sau khi dẹp xong các lực lượng giáo phái, tổ chức truất phế Bảo Đại, tự đưa mình lên ngôi vị Tổng thống, thiết lập ở miền Nam Việt Nam chính thể cộng hòa, Ngô Đình Diệm tiến hành cải tổ toàn bộ bộ máy hành chính các cấp.
Ngày 28-8-1956, tại dinh Độc Lập, Ngô Đình Diệm triệu tập cuộc họp nghiên cứu sửa đổi ranh giới các tỉnh ở Nam Việt. Theo đó, chính quyền Diệm cho sát nhập các tỉnh nhỏ vào các tỉnh lớn, chu vi mỗi tỉnh sẽ có từ 250.000 tới 300.000 mẫu tây. Cũng trong phiên họp này, chính quyền Diệm quyết định thành lập tỉnh Bà Rịa bao gồm Bà Rịa và một phần Vũng Tàu[1].
Ngày 23-10-1956, bằng Sắc lệnh số 144a/TTP, chính quyền Ngô Đình Diệm tiến hành thay đổi tên gọi và địa giới các vùng trong toàn lãnh thổ Việt Nam. Theo đó, Nam Việt, Bắc Việt, Trung Việt từ nay được gọi là Nam Phần, Trung Phần và Bắc Phần[2]. Các tỉnh cũng được đổi tên theo chữ Hán – Việt. Riêng Bà Rịa – Vũng Tàu được đổi tên thành tỉnh Phước Tuy, thuộc Nam Phần.
Ngày 30-1-1957, Bộ Nội Vụ tiếp tục ra Nghị Định số 6- BNV/HC/NĐ, ấn định các đơn vị hành chính tỉnh Phước Tuy, gồm các đơn vị hành chính sau:
Tên quận | Quận lỵ | Tổng | Xã |
Châu Thành Phước Tuy
|
Phước Lễ
|
An Phú Hạ
|
Phước Lễ
Hoà Long Long Phước
|
An Phú Tân
|
Long Hương
Phước Hoà Phước Mỹ Hội Bài Bình Ba |
||
Cơ Trạch | Bình Giã
NgảiGiao Hắc Dịch |
||
Xuyên Mộc
|
Xuyên Mộc
|
Nhơn Xương
|
Xuyên Mộc
Phước Bửu Phú Lâm Bình Châu Thừa Tích |
Long điền
|
Long Điền
|
An Phú Thượng
|
Long Điền
An Ngãi Long Hải Phước Tỉnh Tam Phước |
Đất Đỏ
|
Phước Thọ
|
Phước Hưng Thượng
|
Long Mỹ
Hội Mỹ Phước Thọ Long Tân Phước Hải |
Phước Hưng Hạ
|
Phước Thạnh
Phước Hoà Long Phước Lợi Vũng Tàu |
||
Vũng Tàu
|
Vũng Tàu
|
Phước Hưng Trung
|
Thắng Tam
Tháng Nhì Thắng Nhứt Sơn Long Thạnh An |
Cần Giờ
|
Cần Thạnh
|
Cần Thạnh
Long Thành Đồng Hoá Tân Thạnh Thạnh Thới |
|
Tổng | 6 quận | 8 tổng | 41 xã[3] |
Ngày 20 tháng 3 năm 1958, Bộ Nội vụ chính quyền Sài Gòn ra Nghị Định số 76-BNV/HC/NĐ sửa đổi Nghị Định số 6-BNV/HC/NĐ ngày 3 tháng 1 năm 1957 ấn định đơn vị hành chánh tỉnh Phước Tuy. Theo đó, Tỉnh Phước Tuy có tỉnh lỵ là Phước Lễ gồm các đơn vị hành chính:
Tên quận | Quận lỵ | Tổng | Xã |
Châu Thành Phước Tuy
|
Phước Lễ
|
An Phú Hạ
|
Phước Lễ
Hoà Long Long Phước
|
An Phú Tân
|
Long Hương
Phước Hoà Phước Mỹ Hội Bài |
||
Cơ Trạch |
Bình Ba
Bình Giã NgảiGiao Hắc Dịch |
||
Xuyên Mộc
|
Xuyên Mộc
|
Nhơn Xương
|
Xuyên Mộc
Phước Bửu Phú Lâm Bình Châu Thừa Tích |
Long điền
|
Long điền
|
An Phú Thượng
|
Long Điền
An Ngãi An Nhất Long Hải Phước Tỉnh Tam Phước |
Phước Hưng Thượng
|
Phước Hải
Long Mỹ Hội Mỹ |
||
Phước Hưng Hạ
|
Phước Thọ
Long Tân Phước Thạnh |
||
Phước Hưng Trung
|
Phước Hòa Long
Phước Lợi |
||
Vũng Tàu
|
Vũng Tàu
|
Vũng Tàu
Thắng Tam Thắng Nhì Thắng Nhứt Sơn Long |
|
Cần Giờ
|
Cần Thạnh
|
Thạnh An
Cần Thạnh Long Thạnh Đồng Hóa Tân Thạnh Thạnh Quới Caàn Thaïnh |
|
Tổng cộng: 5 quận, 8 tổng, 41 Xã[4] |
Ngày 9-1-1959, Ngô Đình Diệm ra Sắc Lệnh số 6 – NV, sát nhập vào tỉnh Phước Tuy các xã Bình Khánh, An Thới Đông, Tam Thôn Hiệp, Lý Nhơn của Rừng Sác[5].
Từ năm 1960 trở đi, sau cao trào Đồng Khởi, phong trào Cách mạng miền Nam ngày càng lớn mạnh, trưởng thành cả về thế và lực. Mỹ – Diệm càng tăng cường hơn nữa trong việc đàn áp, hòng tiêu diệt lực lượng cách mạng miền Nam. Bên cạnh việc tổ chức liên tục các cuộc hành quân càn quét, Diệm còn thực hiện “Quân sự hoá” bộ máy công quyền, đưa sĩ quan quân đội nắm các chức vị Tỉnh, Thị và Quận trưởng, các Dinh điền, các Khu Trù mật, Ấp chiến lược và trực tiếp chỉ huy bộ máy chính quyền ở địa phương. Bộ máy hành chính các tỉnh được ấn định lại cho phù hợp với chính sách quân sự hóa của Việt Nam Cộng hòa.
Theo đó, ngày 27-7-1960, Bộ Nội vụ chính quyền Sài Gòn ra công văn số 1350/BNV/NV/3/TM về việc phân chia diện tích tỉnh ra từng khu, giao cho nhân viên hành chính phụ trách. Theo đó, tỉnh Phước Tuy được chia làm 24 vùng giao cho nhân viên toà hành chính các quận phụ trách. Tùy diện tích lớn nhỏ, mỗi quận được chia từ 2 đến 5 vùng như sau: 1- Châu Thành Phước Lễ 5 vùng; 2- quận Châu Thành 3 vùng; 3- quận Long Điền 4 vùng; 4- quận Vũng Tàu 5 vùng; 5- quận Xuyên Mộc 2 vùng; 6- quận Cần Gìơ 3 vùng; 7- quận Quảng Xuyên 2 vùng[6].
2. Phân chia lãnh thổ quân sự
Về mặt quân sự, chính quyền Ngô Đình Diệm đã tiến hành xây dựng một hệ thống chiến trường có tổ chức. Dựa trên nền lãnh thổ quân sự từ thời kỳ Quốc Gia Việt Nam, Mỹ – Diệm đã từng bước củng cố, điều chỉnh và định lại lãnh thổ quân sự trên toàn bộ chiến trường Nam Việt Nam.
Ngày 19/3/1954, Bảo Đại Ra sắc lệnh số 19 – QP, sửa đổi lại điều 1 và 2 của Sắc Lệnh Số 61 – PQ ngày 26/6/1952 chia lãnh thổ Việt Nam ra thành 4 Quân khu nay được định lại như sau:
1- Kể từ ngày 1/4/1954 lãnh thổ Việt Nam chia thành 4 Quân khu lấy tên là : Đệ Nhất Quân Khu tại Nam Việt; Đệ Nhị Quân Khu là phần lãnh thỗ Trung Việt kể từ ranh giới phía Bắc tỉnh Quảng Ngãi trở lên; Đệ Tam Quân Khu tại Bắc Việt; Đệ Tứ Quân Khu gồm các vùng Cao Nguyên miền Nam và phần Trung Việt kể từ ranh giới phía Bắc tỉnh Quảng Ngãi trở Xuống”.
2 – Địa giới các Đệ Nhất và Đệ Tam Quân Khu ăn nhập với địa giới các khu hành chính. Vùng Cao Nguyên miền Bắc phụ thuộc vào Đệ Tam Quân Khu và vùng Cao Nguyên miền Nam lập thành Đệ Tứ Quân Khu gồm cả phần lãnh thỗ Trung Việt đã kể trên”. Dưới các Quân khu sẽ thành lập các Phân khu, dưới các Phân khu sẽ là các Tiểu khu, mỗi một Tiểu khu sẽ tương đương với một tỉnh và bên cạnh đó các Đặc khu cũng được thành lập. Địa giới quân sự này cũng là địa giới hành chính[7].
Ngày 24/10/1956, của tổng thống Ngô Đình Diệm ra sắc Lệnh số 147- b/QP định lại địa giới Đệ nhất Quân khu đã được quy định tại sắc lệnh số 19- QP, nay gồm có 9 tỉnh, trong đó có tỉnh Phước Tuy[8].
Tiếp đó, tháng 9/1956 Ngô Đình Diệm ra sắc lệnh số 147- QP, phân chia lại lãnh thổ quân sự tại Nam Việt Nam trên cả Nam Phần, Trung Phần và Cao Nguyên Trung Phần làm 5 Quân Khu: Quân Khu Thủ Đô (Thủ Đô Sài Gòn); Quân Khu I, Quân Khu II, Quân Khu III, Quân Khu IV, Quân Khu V. Theo đó, tỉnh Phước Tuy thuộc địa phận Quân Khu I[9].
Ngày 23/12/1956 phòng Nhất và phòng Tư – Tổng Tham mưu Bộ Quốc phòng VNCH ban hành Sự vụ văn thư số 5.253/TTM/I/I/MK quyết định giải tán các Phân khu, Tiểu khu và tổ chức lại lãnh thổ Đệ nhất Quân khu. Theo đó kể từ ngày 31/12/1956 các Phân khu sau sẽ được giải tán : 1-Phân khu Mỹ Tho, 2-Phân khu Sóc Trăng, 3-Phân khu Cần Thơ, 4-Phân Khu Đồng Tháp Mười, 5-Phân Khu Đông, 6-Phân Khu Sài Gòn – Chợ Lớn. Cũng kể từ ngày 31/12/1956 các tiểu khu sau cũng sẽ được giải tán : 1- Tiểu Khu Đô Thành, 2-Tiểu Khu Chợ Lớn, 3- Tiểu Khu Bà Rịa, 4- Tiểu Khu Vũng Tàu, 5-Tiểu Khu Tân An, 6- Tiểu Khu Mỹ Tho, 7-Tiểu Khu Gò Công, 8- Tiểu Khu Long Xuyên, 9- Tiểu Khu Châu Đốc, 10-Tiểu Khu Rạch Rá, 11-Tiểu Khu Hà Tiên, 12- Tiểu Khu Bạc Liêu, 13- Tiểu Khu Sóc Trăng, 14-Tiểu Khu Sa Đéc, 15-Tiểu Khu Tam cần. Và kể từ ngày 1.1/1957. Lãnh thổ Đệ Nhất Quân Khu sẽ gồm có 9 Tiểu Khu : 1-Tiểu Khu Gia Định, 2-Tiểu Khu Phước Long, 3-Tiểu Khu Bình Long, 4-Tiểu Khu Long Khánh, 5-Tiểu Khu Biên Hoà, 6-Tiểu Khu Tây Ninh, 7-Tiểu Khu Phước Tuy, 8-Tiểu Khu Bình Tuy, 9-Tiểu Khu Bình Dương (được đổi danh hiệu là tiểu khu Thủ Dầu Một[10].
Ngày 24/7/ 1960, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ra Sắc lệnh số 165-QP quyết định sửa đổi địa giới Quân khu Thủ Đô và Đệ Nhất Quân khu. Tỉnh Phước Tuy thuộc địa phận Đệ nhất Quân khu, (trừ hai Quận Quảng Xuyên và Cần Giờ thuộc về Quân khu Thủ Đô)[11].
Tuy nhiên bước sang năm 1961 khi mà tinh hình chính sự trên chiến trường Nam Việt Nam có nhiều biến động lớn, nhất là về mặt quân sự. Mỹ – Diệm ngày càng tăng cường các hoạt động vũ trang, bạo động, khủng bố, đàn áp các phong trào đấu tranh cách mạng và những người ủng hộ Cộng sản. Còn về phía chính quyền cách mạng sau một thời gian dài đấu tranh về chính trị cũng đã chuyển sang dùng vũ trang cách mạng tiến hành những cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giáng trả lại sự đánh phá điên cuồng của chính quyền Mỹ –Diệm. Trước tình hình đó buộc chính quyền Mỹ – Diệm phải thay đổi chiến thuật quân sự và tổ chức chiến trường để thực hiện chiến lược mới. Vì vậy lãnh thổ Quân sự tổ chức theo Quân khu đã bị huỷ bõ, theo đó các Quân khu cũng bị bãi bỏ và lãnh thỗ Quân sự được thiết lập theo một thể thức mới.
Ngày 13 /4/1961 Tổng Thống VNCH Ngô Đình Diệm ra sắc Lệnh số 98/QP, dựa trên tình hình chính trị, quân sự thực tế cũng như những yêu cầu thay đổi về chiến thuật quân sự nên đã quyết định bãi bỏ các Quân khu và phân chia lãnh thổ quốc gia thành 3 Vùng chiến thuật và một Biệt Khu Thủ Đô. Trong đó quy định rõ nay huỷ bỏ Sắc lệnh số 61- QP ngày 26/6/1952 cùng các văn kiện bổ túc về việc phân chia lãnh thổ Quốc Gia thành các Quân Khu. Và lãnh thổ quốc gia từ nay được phân chia thành 3 Vùng Chiến Thuật và 1 Biệt Khu Thủ Đô ranh giới được ấn định như sau:
1 – Ranh giới Vùng Chiến Thuật thứ 1 là ranh giới Quân Khu 2 hiệrn tại.
2 – Ranh giới Vùng Chiến Thuật thứ 2 là ranh giới Quân Khu 4 hiện tại.
3 – Ranh giới Vùng Chiến Thuật thứ 3 là ranh giới các Quân Khu 1, 5 và Thủ Đô hiện tại[12]. Theo đó, tỉnh Phước Tuy thuộc địa phận vùng chiến thuật thứ 3.
Ngày 5/5/1961 Tổng Thống VNCH ra huấn thị về việc thành lập Vùng chiến thuật, đã phân tích rõ mục đích của việc phân chia lãnh thổ Quốc gia thành Vùng Chiến Thuật thực chất là nhằm áp dụng tối đa nguyên tắc thống nhất về mặt chỉ huy bằng cách tạm thời đặt Quân đoàn vào một “khung cảnh lãnh thổ” cụ thể. Với việc tạm thời sử dụng tất cả phương tiện cơ hữu và tăng cường các Quân đoàn để thanh toán gấp việc bình định nội địa, yểm trợ chương trình cải tổ và huấn luyện bảo an trong một thời gian ấn định là 2 năm để lực lượng này có thể tham gia tích cực vào nhiệm vụ phòng vệ diện địa. Chính vì vậy về mặt tổ chức lãnh thổ Quốc Gia sẽ chia thành 3 Vùng Chiến Thuật. Mỗi Vùng Chiến Thuật có thể được chia thành nhiều Khu Chiến thuật. Mỗi Khu Chiến thuật sẽ bao gồm nhiều tỉnh. Trong đo mỗi Quân Đoàn phụ trách một Vùng Chiến thuật, mỗi Sư đoàn phụ trách một Khu Chiến thuật. Tại mỗi tỉnh, vị tỉnh trưởng nếu là quân nhân sẽ kiêm nhiệm chức vụ Tiểu Khu trưởng đe chỉ huy các đơn vị chính qui các lực lượng bán quân sự và Cảnh bị thuộc quyền. Trong nhiệm vụ Tiểu Khu trưởng. Nhất là trong cuộc hành quân, viên chức này nằm trong hệ thống quân sự. Tuy nhiên Tỉnh trưởng vẫn giữ nguyên vẹn quyền hạn của mình về phương diện hành chính, chính trị và trong các phạm vi này vẫn thuộc Bộ Nội vụ. Bộ Tổng Tham Mưu sẽ nghiên cứu và đề nghị ranh giới các Khu Chiến Thuật thuộc Vùng Chiến Thuật I và II, riêng về Vùng Chiến Thuật III ranh giới các Khu Chiến Thuật được tạm thời ấn định như sau:
1- Khu Chiến Thuật Đông gồm các tỉnh( Biên Hoà, Phước Tuy, Bình Tuy, Long Khánh, Phước Long, Bình Long, Bình Dương, Tây Ninh, Phước Thành);
2- Khu Chiến Thuật Tiền Giang (gồm các tỉnh Long An, Kiến Tường, Kiến Phong, Định Tường, Kiến Hoà);
3- Khu Chiến Thuật Hậu Giang (gồm các tỉnh Vĩnh Long, Vĩnh Bình, An Giang, Phong Dinh, Ba Xuyên, Kiên Giang, An Xuyên);
4- Biệt Khu Thủ Đô (gồm Sài Gòn và Gia Định); Biệt khu Thủ Đô sẽ nằm trong phạm vi Vùng Chiến thuật III và thuộc quyền Bộ Tư Lệnh III. Riêng tỉnh Côn Sơn sẽ biệt lập và trực thuộc Bô Tư Lệnh Hải Quân[13].
Ngày 26/11/1962 Tổng Thống VNCH ra Sắc lệnh số 213/QP, sửa đổi lại điều 2 do Sắc lệnh số 98/QP ngay 13/4/1961 như sau: lãnh thỗ Quốc gia từ nay được chia lại thành 4 Vùng Chiến Thuật và 1 Biệt Khu Thủ Đô ranh giới các Vùng chiến thuật cũng được ấn định như sau:
1- Vùng 1 Chiến Thuật (gồm 4 tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Tín);
2- Vùng 2 Chiến Thuật (gồm có 6 tỉnh Quảng Ngãi, Kontum, Pleiku, Bình Định, Phú Yên, Phú Bổn);
3- Vùng 3 Chiến Thuật (gồm có 16 tỉnh Darlak, Quảng Đức, Tuyên Đức, Khánh Hoà, Phước Long, Lâm Đồng, Ninh thuận, Bình Thuận, Bình Long, Phước Thành, Long Khánh, Bình Tuy, Tây Ninh, Bình Dương, Biên Hoà, Phước Tuy).
4 – Vùng 4 Chiến Thuật (gồm có 14 tỉnh Long An, Kiến Tường, Định Tường, Kiến Phong, Kiến Hoà, Vĩnh Long, An Giang, Vĩnh Bình, Phong Dinh, Kiên Giang, Chương Thiện, Ba Xuyên, An Xuyên và Côn Sơn. 5- Biệt khu Thủ Đô gồm có Sài Gòn và tỉnh Gia Định)[14].
Như vậy, Tỉnh Phước Tuy thuộc địa phận Vùng 3 chiến thuật. Sự thay đổi này được giữ nguyên cho đến khi chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ vào năm 1963.
Như vậy, địa giới hành chính tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu dưới thời Ngô Đình Diệm đã trải qua nhiều lần thay đổi. Mục đích của sự thay đổi này của chính quyền Ngô Đình Diệm là nhằm thiết lập một bộ máy thống trị tới từng tỉnh, huyện, xã, nhằm phục vụ cho công cuộc bình định, thâu tóm quyền lực từ trung ương đến địa phương.
Lê Vị
[1] Biên bản phiên nhóm họp tại Dinh Độc Lập để nghiên cứu các vụ sửa ranh giới sáp nhập các tỉnh ở Nam Việt để tiện việc tổ chức hành chánh, hồ sơ số 1169, phông ĐICH.
[2] Sắc Lệnh số 144a/TTP ngày 23.10.1956 sửa đổi danh hiệu Nam Việt, Trung Việt, Bắc Việt ra danh hiệu Nam Phần, Trung Phần và Bắc Phần. Công báo Việt Nam cộng hòa 1956, trang 2715
[3] Công báo Việt Nam Cộng hòa 1957, trang 2157
[4] Công báo Việt Nam Cộng hòa 1955, trang 1224.
[5] Công báo Việt Nam Cộng hòa 1959, trang 212.
[6] Công văn số 1350/BNV/NV/3/TM về việc phân chia diện tích tỉnh ra từng khu để giao cho nhân viên hành chính phụ trách Hồ sơ số 2184, ĐICH.
[7] Sắc lệnh số 19 – QP, hồ sơ 4764, phông PTTg.
[8] Hồ sơ số 2160, ĐICH
[9] Công bố Việt Nam 1956.
[10] Hồ sơ số 1110, ĐICH
[11] Hồ sơ số 2160, ĐICH
[12] Hồ sơ 4764, PTTg
[13] Hồ sơ số 2644,ĐICH
[14] Hồ sơ 4764, PTTg.
Tin cùng chuyên mục:
Khó khăn và giải pháp khắc phục trong triển khai nhiệm vụ nộp lưu tài liệu lưu trữ số
Thực trạng triển khai công tác lưu trữ điện tử của Ủy ban Dân tộc
Văn học Sài Gòn 1954-1975 những chuyện bên lề
Sài Gòn 1698-1998 Kiến trúc quy hoạch