Lá thư do cụ Huỳnh thúc Kháng viết dưới dạng một bài thơ để kêu gọi lòng yêu nước, ủng hộ Chính phủ Hồ Chí Minh, kêu gọi toàn thể đồng bào đứng lên nhằm bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc.
Cụ Huỳnh Thúc Kháng
Cụ Huỳnh Thúc Kháng sinh năm 1876 tại Quảng Nam. Năm Giáp Thìn 1904, ông đỗ Đệ Tam giáp tiến sĩ. Năm 1908, ông cùng một số chí sĩ yêu nước lãnh đạo phong trào Duy Tân nên bị bắt và ông bị đày ra Côn Đảo suốt 13 năm, đến mãi năm 1919 mới được trả tự do. Năm 1927, ông sáng lập tờ báo Tiếng Dân nổi tiếng.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh mời ông tham gia Chính phủ Liên hiệp lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Năm 1946, khi Hồ Chí Minh sang Pháp đàm phán, Cụ Huỳnh Thúc Kháng được cử làm Quyền Chủ tịch nước Việt Nam. Thời gian này ông còn là Chủ tịch Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam. Cuối năm 1946, ông là Đặc phái viên của Chính phủ vào cơ quan Uỷ ban Kháng chiến Hành chính Nam Trung Bộ tại Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi.
Ngày 21 tháng 4 năm 1947, ông lâm bệnh nặng và mất huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi.
Cụ Huỳnh Thúc Kháng còn là một nhà nghiên cứu văn học và lịch sử, đồng thời là một nhà thơ nổi tiếng. Ông làm thơ bằng tiếng Việt và cả bằng tiếng Hán. Trong thời gian làm Đặc phái viên Chính phủ, nhân ngày đầu Năm mới 1-1-1947, khi cuộc kháng chiến toàn quốc mới bắt đầu, thay mặt Ủy ban Kháng chiến quân dân chính ông đã viết một láThư của Uỷ ban kháng chiến quân dân chính Chính phủ Việt Nam gửi đồng bào quốc dân. Lá thư được viết dưới dạng một bài thơ để kêu gọi lòng yêu nước, ủng hộ Chính phủ Hồ Chí Minh, kêu gọi toàn thể đồng bào đứng lên nhằm bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc. Bài thơ này được ông Nguyễn Ngọc Tỉnh – Viện Sử học dịch năm 1964.
Nhân dịp năm mới 2016 và nhân 69 năm ngày bài thơ ra đời, chúng tôi xin trân trọng gửi tới độc giả bài thơ này.
Một trang của bức thư |
Một trang của bản dịch bức thư |
Việt Nam dân chủ cộng hoà năm thứ 3
Ngày 1 tháng 1 năm 1947
Thư
Của Uỷ ban kháng chiến quân dân chính
Chính phủ Việt Nam gửi đồng bào quốc dân
Than ôi! ầm ầm nổi sóng, kình ngạc kia mong thoả chí thèm thuồng
Oang oắc vang chằm, hồng nhạn nọ chỉ sợ cơn tan tác.
Bọn thù ấy dám khêu ngòi trở lại
Tiền quân ta liền đón đánh không tha
Dẫu cho phần tử hai kỳ, quyết ra sức để đòi sông núi;
Huống ở trung tâm một nước, há nằm yên để chúng gáy khò.
Người tiền tuyến hi sinh nhường ấy!
Kẻ hậu phương ủng hộ sao đây?
Tổ quốc Việt Nam chúng ta,
Xa thư một mối
Văn hiến nghìn năm.
Lãnh thổ gồm ruộng đổng, cửa biển với sông ngòi,
Khác những nơi núi tuyết biển băng, đất không mọc cỏ;
Khí hậu đủ nắng nóng ấm ôn và mát lạnh, hơn cả chốn đồng sa biển cát, năm chẳng nhỏ mưa.
– Bắc giáp nước Trung Hoa, Nam giáp nước Cao Miên, giữa thì Nam Bắc liền nhau, hai thúng một đòn, kho trời đặt giữa khu Hồng – lạc;
– Đánh đầu thì đuôi dẫy, đánh đuôi thì đầu dẫy, đánh xương sống thì đầu đuôi quắp lại, triệu người một bụng, thế đất bày nên trận trường xà.
– Chính là một cường quốc da vàng, phương Đông tự chủ;
– Khác với những thổ dân giống đỏ, châu Mỹ khinh thường.
Nhưng thế cục xẩy lắm tang thương, mà lịch sử có nhiều giai đoạn.
Lai láng biển Âu, dạt dào bốn phía,
Mông mênh đất Á, chìm ngập toàn châu.
– Vì đất ta xa cách, trâu ngựa hỏng chẳng kịp nhau.
– Bị vạ thảm tham tàn, sài lang ăn không biết chán.
– Cửa Trà – Úc bắt đầu nổ súng, lấn mất hải quyền.
Năm Giáp Thân bảo hộ nghị hoà, can vào nội chính
Bắt ức triệu nhân dân ta làm tôi tớ
Bỏ trong ngoài quan lại làm bù nhìn.
Ma quỷ đầy đường.
Hùm sinh chật lối
Dưa chia đậu bữa, còn đâu là nhất thống dư đồ.
Cắt thịt róc xương, hút hết cả quần sinh cao tuỷ
Thậm chí trưng thu thuế máu, nuôi bọn tay sai.
Thuế nặng chính phiền, lưới phép dầy hơn hoa nở.
Côn Lôn, Lao Bảo, ngục tù gấp mấy nhà thương.
Bầy trẻ thông minh, vùi thây xác ở chiến hào Âu lục
Thợ thuyền cường tráng, tưới mồ hôi vào hầm mỏ viễn dương.
Tội ác quá chừng!
Tre đâu chép hết?
Quân thù kia chẳng đội trời chung
Anh hùng nọ phải dùng đất võ.
Những nhà anh liệt ái quốc
Của chúng ta trước đây:
Bền giữ đất đai,
Phá vòng nô lệ,
Đầu thì, giặc dã ngoài biên,
Nối đến kinh thành nạn nước,
Hội nghĩa dựng lên như rừng mọc,
Hịch quân truyền chạy như sấm vang.
Có người đuổi giặc như Gia Cát đời Hán.
Có người giữ đất như Trương Tuần nhà Đường.
Bác lãng một dùi, có người như Trương Lương báo Hàn tận lực;
Tần đình bẩy buổi; có người như Bao – Tự khóc Sở nhiệt tình.
Mẩu luỹ Vụ – Quang, 10 năm chống chọi;
Một đồn Yên – Thế, trăm trận dọc ngang
Có người là Mã – Khắc, là Tôn Văn, khơi nguồn trước cho Khoa học – xã hội.
Có người là Lư – Thoa, là Mạnh Đức, dập ngòi lửa của đế chế độc quyền.
Ngoài ra còn Nhật – Tảo lửa bùng,
Ba Đình súng nổ,
Với những chuyện chống sưu, đầu độc, nghe rất sướng tai,
Với những cuộc Yên Bái, Thái Nguyên, diễn ra nhộn mắt.
Quốc hồn trở lại,
Sinh khí tươi lên.
Tuy tay trắng mình trần, hào kiệt cứu thời đã khuất;
Mà trước ngã sau dậy, tinh thần cách mạng vẫn còn!
Truyền đến từ xa, người xưa đã dậy;
Giữ cho đừng mất, mong ở ngày nay.
Hồ Chí Minh tiên sinh chúng ta:
Chí sĩ chân chính yêu nước
Cách mạng lão luyện lành nghề.
Chân đạp năm châu,
Mắt nhìn mọi vật,
Nhận rõ toàn cục,
Lắng biết tiên cơ.
Tổ chức quân sinh lực giải phóng.
Lãnh đạo đội cán bộ hùng cường.
Chứa sức lâu năm
Kịp thời ứng dụng
Thủ xướng có Việt minh đứng trước, một tiếng dơ tay;
Hướng ứng được toàn quốc quân dân, bốn bề vùng dậy.
Sấm sét ầm ầm vang đất hạn;
Gió mây rầm rập thét oai quân.
Cây cỏ giúp thiêng;
Núi hang trợ lực.
Cờ đỏ 5 tia che bóng nhật, làng xa chợ nhộn, rợp đất tung bay;
Máu hồng 3 xứ nhuộm in mây, tả hợp hữu chia, đầy trời phun tóe.
Xác nằm đầy nội, ôi đội quân Phát xít tan tành!
Khí mạnh thêm hùng, ấy tự vệ chiến tranh anh dũng.
Một trường oanh liệt, dựng lại non sông.
Tám mươi năm dưới gót cường quyền, dàm ngựa ách trâu, một phen quét sạch;
Hơn nghìn năm trò hề phong kiến, râu rồng cánh hổ, mọi cảnh xóa mờ.
Sướng biết bao nhiêu? thoát nô lệ mà lên ngôi tự chủ;
Vui làm sao nhỉ! bỏ quân quyền mà phục vụ nhân dân.
Đặt phiến đá dưới nền tảng hòa bình, thuận ứng với trào lưu khoa học xã hội;
Dâng tên nước lên võ đài thế giới, không để làm miếng thịt trong màn kín thực dân.
Gần thì Nam- Dương, Tinh – Châu, Cao-Ly, Ấn – Độ, Diến – Điện;
Xa thì Phi châu, Ai Cập, Li Băng, Á – Li,
Bao nhiêu nước nhỏ bị chinh phục ở Hoàn Cầu, là mặt trận đòi tự do của dân tộc chúng ta vậy!
Chính nghĩa kháng chiến, có điều kiện độc lập quốc gom phần;
Tự chủ quyết tâm, hợp với Hiến chương của đồng minh công nhận.
Chẳng nhưng cao cấp Trung Hoa dân quốc, vốn đã tán thành;
Mà đến cả đại biểu Anh Mỹ yếu nhân, cũng đều mặc nhận.
Gồm cả bình – dân nước Pháp mới, đa số nghiêng theo.
Và Chính phủ lâm thời, nhiều lần bàn tới.
6 tháng 3 bắt đầu Hiệp định, cùng nhau ký kết, Pháp đặc – ủy trịnh trọng sang ta;
14 tháng 9 Tạm ước thi hành, nhận được giấy mời, Hồ Chủ tịch đường hoàng qua Pháp.
Rõ ràng ước thệ, trời đất sáng soi.
Tai mắt trông nghe, trong ngoài nhận biết.
Đã mang tiếng văn minh cường quốc.
Há lẽ đâu trém truốc ăn lời.
Nhưng vì phái phản động của thực dân.
Lòng tham không đáy, giấc ngủ còn mê.
Xé bỏ giấy ký kết của Chính phủ họ.
Khiêu khích lòng tôn trọng tín mục của ngoại giao ta.
Bom đạn máy bay, ném giết những lương dân vô tội
Thủy binh tàu chiến, xâm lấn vào quan thuế chủ quyền.
Biểu thị thói dã man, phá rối hòa bình trong nhân loại.
Chống ngăn nguồn tiến hóa, không theo công lệ dưới trào lưu.
Phạm tội rất nhiều,
Thảm không nhân đạo
Nín không thể nín
Thêm chẳng buồn thêm.
Sau đành vác giáo giữ mình;
Thề quyết trường kỳ kháng chiến.
Hòa máu đỏ đấu tranh nơi tiền tuyến
đổ vào máu giặc để buông ra;
Gom mỡ nhìn tiếp tế của hậu phương
há nghĩ mỡ dân mà dám tiếc.
Nơi vừa tới đó
đau đớn vô cùng!
Lớn tiếng kêu lên,
Chỉ trời thề thuyết!
Cúi xin đồng bào quốc dân ta, nào chú bác cô dì, nào anh em chị em là những người yêu nước, không kể lớn bé, không kể mới cũ, không phân biệt giai cấp, không chia rẽ Đảng phái. Thượng du trung thổ cũng như nhau,
Tăng lữ giáo đồ không có khác.
50 vạn Hoa kiều yêu quí, há quên nơi làng cũ thứ hai.
Hơn nghìn năm Âu Mỹ bạn buôn, cũng nhận đó thú vui bực nhất;
Anh em bốn biển.
Làng xóm năm Châu.
Dân tộc ngày nay, thực một sống ở trong chín chết;
Nghĩ ơn đất nước, như sợi tóc động cả toàn thân.
Cứu cháy vớt chìm, ở khi nóng mắt.
Nhường chăn sẻ ấm, giúp lúc thư chân.
Vả khi đủ mặc đủ ăn, theo lời Khổng thánh.
Được lúc hằng tâm hằng sản, nhớ sách Mạnh hiền.
Trương tử Phòng bỏ của nghìn vàng, dốc lòng vì nước!
Lỗ Tử Kính vâng cho vựa thóc, vui bụng giúp quân.
Dỡ kho trong đem để kho ngoài, ngọc ngựa thu về như cũ;
Tan đụn nhỏ ra thành đụn lớn, kho tàng chưa để xiết bao!
Ai người hăng hái nhiệt thành, bia hào hiệp tạc ghi tên họ;
Ai kẻ lưng khừng lãnh đạm, bút Xuân thu nghiêm chép búa rìu.
Kìa Thạch Sùng giàu ở hang vàng, một mai đầy vạ;
Nọ Tần Cối chết mang đầu sắt, muôn thủa bêu nhơ.
Tức nay đọc sử cận thời,
Soi thấy mảnh gương dĩ vãng
Chọn hay thì học
Thấy lỗi đừng theo.
Đồng bào yêu dấu ta ơi!
Quốc dân yêu dấu ta ơi!
Lòng tốt sẵn rồi!
Niềm tin vững nhé!
Người sau hẳn giỏi, đất cỏ tranh chi
thiếu kẻ anh hùng.
Vùng dậy tiến lên, xe lịch sử hẳn không quay bánh lại.
Nhân hòa có thiên thời địa lợi, đắc đạo thì người giúp hẳn nhiều;
Dân sinh đương khát uống đói ăn, việc làm nửa mà công nên gấp bội.
Thu được buổi tối – chung thắng lợi, mỗi người gom một giọt máu hòa vào;
Mặc dầu quân phản động âm mưu, thề chẳng khoác vòng nô lần nữa.
Than ôi! Trần Diên – Hồng hỏi mưu kỳ lão, đồng thanh quyết đánh, Bạch Đằng kia Sát Thát dựng bia.
Nguyễn Quang Trung khích lệ quân dân, khắc chí diệt thù, Hồng Hà nọ phù kiều thắng trận.
Đại đoàn kết một khối rất mạnh, ta phải khuyên nhau.
Độc lập quốc, muôn thuở vinh quang, gì còn hơn nữa?
Vài hàng chữ mực
Một tấm lòng son.
Trời có thấu chăng? Mong cả quốc dân soi tỏ!
Gặp ba ngày Tết, chúc chung hai chữ Xuân Hi!
——————————————————–
Dính viên Huỳnh Thúc Kháng soạn
Viện Sử học: Nguyễn Ngọc Tỉnh cẩn dịch.
Ngày 15-7-1964
Nguồn: archives.gov.vn
Tin cùng chuyên mục:
Khó khăn và giải pháp khắc phục trong triển khai nhiệm vụ nộp lưu tài liệu lưu trữ số
Thực trạng triển khai công tác lưu trữ điện tử của Ủy ban Dân tộc
Văn học Sài Gòn 1954-1975 những chuyện bên lề
Sài Gòn 1698-1998 Kiến trúc quy hoạch