– Ca trù là một loại nhạc thính phòng.
– Quan họ là một sinh hoạt văn hóa giữa những người nông dân gặp nhau trong những đêm trăng, đặc biệt trong 2 mùa Xuân — Thu, để hát đối đáp với nhau.
– Nhã nhạc Cung đình cốt là một loại Lễ nhạc dùng trong lễ hội Cung đình như Tế Giao, Tế Miếu, Tế Thần; trong những buổi họp Đại triều hay Thượng triều; trong những buổi Nhựt thực, Nguyệt thực. Nhưng cũng là một loại nhạc tiêu khiển cho các bậc vương gia và xuất hiện trong những buổi yến tiệc lớn.
Trong 3 bộ môn nghệ thuật kể trên, Quan họ từ ngày xưa đến gần đây không phải là môn diên xướng, vì hát Quan họ không phải để biểu diễn cho người khác xem như ngày nay, vì Quan họ đã bị “sân khấu hóa”.
A. Xuất xứ và đặc thù của 3 bộ môn này:
1. Ca trù:
Các chuyên gia nghiên cứu đến nay, đa số đã đồng ý cho rằng Ca trù dưới hình thức ngày nay đã bắt đầu có từ thời nhà Lê (thế kỷ XV) sau khi cây đàn Đáy do Đinh Lẽ (hay Đinh Dự theo một số Giáo phường) sáng chế ra.
Ca trù là một sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa thi ca và âm nhạc.
1.1. Thi ca:
Những bài hát trong Ca trù đã dùng tất cả các loại thơ cổ trong truyền thống Việt Nam: 4 chữ, lục bát, lục bát biến thể, song thất lục bát, ngũ ngôn, thất ngôn theo truyền thống Thơ Đường, và đặc biệt những câu thơ 8 chữ – tiền thân của loại thơ mới – và nhiều câu 9,10,11,12,13 chữ.
Về hình thức thơ có loại “hát Nói” rất đặc biệt gôm 3 khổ (4 câu + 4 câu + 3 câu) là những bài đủ khổ; nhiêu hơn là loại đôi khổ. Thường có những câu Mưỡu mở đầu (4 câu thơ lục bát)
1.2. Âm nhạc:
Ca trù vừa là một loại thanh nhạc (vocal music), vừa là một loại khí nhạc (instrumental music). Có một ngôn ngữ âm nhạc tế nhị, tinh vi.
# Thanh nhạc: Ca nương phải có một giọng thanh-cao-vang, khi hát phải biết “ém hơi”, “nhá chữ” và hát “tròn vành rô chữ”, biết “nảy hạt” (đổ hột), “đổ con kiến”. Ca nương vừa đàn, vừa gõ phách. Phải biết rành 5 khổ phách cơ bản, đánh “lưu không”, tiếng phách phải chác và giòn, lời ca và tiếng phách phải ăn khớp với nhau.
# Khí nhạc: Kép đàn dùng đàn Đáy phụ họa. Bản đàn không nhất thiết phải đi theo bài hát, vì phải theo khổ đàn, nhưng khổ đàn – khổ phách – tiếng ca hợp nhau, hài hòa nhuần nhuyễn. Có những cách đàn ca “chân phương”, theo lẻ lối hay “hàng hoa”, sáng tạo và bay bướm.
Quan viên là người “cầm chầu”, tiếng trống chầu vừa chấm câu khi tham gia vào cuộc diên tấu, nhưng có tính chất phê phán, khen chê đúng chỗ, để khích lệ ca nương – kép đàn, giúp cho thính giả biết được đoạn nào hay – thật hay và như thế được giáo dục âm nhạc trong cách nghe.
Ba nhạc khí dùng trong Ca trù rất đặc biệt:
+ Cỗ phách: gồm có bàn phách, một miếng tre hay gỗ và 2 dùi dùng đề gõ phách (một dùi hình tròn bằng gỗ đặc, một dùi được chẻ ra làm 2 theo chiều dài), thường mang tên là phách cái và phách con. Hình thức đặc biệt dùi tròn được xem như là dương vật (linga theo truyên thống Ấn Độ), dùi chẻ hai được xem như là âm vật (yoni). Nhờ vậy, khi nghe 2 tiếng phách thính giả nhận thấy rằng có một tiếng trong và một tiếng đục, một tiếng mạnh và một tiếng nhẹ, một tiếng cao và một tiếng thấp, một tiếng dương và một tiếng âm. Tiếng phách Ca trù Việt Nam rất độc đáo và trong nhạc thế giới không có nước nào khác có cách gõ như thế.
+ Cây đàn Đáy: chi có trên đất nước Việt Nam, được sáng tạo từ nước Việt Nam, do người Việt Nam và trên thế giới không có nước nào có một nhạc khí tương tợ hay đông loại. Thùng đàn hình thang hoặc chữ nhật, có mặt mà không có đáy, cân đàn dài hơn cả các nhạc khí trong và ngoài nước, 3 dây đàn đi thẳng từ cân đàn vào trục mà không đi ngang qua một “cầu đàn” như những nhạc khí khác. Do đó, trong cách nhấn nhá của đàn Đáy có loại “nhấn chùn” không tìm thấy trong thủ pháp cúa những đàn dây. Mười phím đàn bằng tre hay bằng gỗ được đặt trên cần đàn. Khảy đàn có tiếng “vê”, “vẫy”, “lia”. Ảm thanh dây đàn khi bổng khi trâm, nhưng màu âm rất đặc biệt.
Thính giả vừa nghe giọng ca lảnh lót, đan chen với tiếng đàn trâm hùng, tạo nên một bức thêu âm thanh tuyệt diệu, làm say lòng người hằng giờ. Thính giả có thể theo dõi buổi hòa nhạc suốt ngày thâu đêm mà không chán.
+ Trổng chầu: một buổi hát Ca trù không thế thiẽu trống chầu. Khi vào cuộc 3 tiếng trống chầu (sòng đầu) bát đầu bài hát và sau đó là đúc kết, cũng có một loạt 3 tiếng trống chầu hòa với tiếng phách và tiếng đàn. Trống chầu có chức năng chấm câu, chấm nhịp. Khi khen phải đánh theo những công thức có từ ngày xưa và mang những tên rất thi vị “xuyên tâm”, “hạ mã”, “thượng mã”, “song châu”, “liên châu” …
* Ngôn ngữ âm nhạc: thang âm – điệu thức – tiết tấu đêu vô cùng đặc biệt. Những tiếng đàn khác giọng, không mang tên Hò xụ xê cống liu mà được gọi từ xưa tính tỉnh tình tinh tung tàng tang.
Thang âm không theo loại 2,3,4,5 âm mà có một cấu trúc đặc biệt.
Các điệu thức cũng rất độc đáo. Những cách đàn hát khác nhau thường được gọi là “cung Khi “thỏng tỳ bà” trong bài “Tỳ bà hành” thường có đủ 5 cung (cung Bắc, Nam, Nao, Pha, Huỳnh) mà các nghệ nhân ai cũng thông thạo, nhưng chưa có một thiên nghiên cứu âm nhạc học nào rõ ràng về 5 cung ấy.
Ca trù là một nghệ thuật biểu diên rất tinh tế, sâu sắc vào bậc nhất của nước ta và có thế nói của thế giới. Chí cần 2 diễn viên và 1 quan viên đủ làm cho thính giả nhận thức được thơ hay, nhạc ngọt, phách giòn, thang âm điệu thức đa dạng, uyển chuyển, nhịp điệu rộn ràng, tiếng trống chầu trang nghiêm, sang trọng. Ca trù có đủ yếu tố để làm say mê khán giả từ giờ này đến giờ khác, từ ngày này qua đêm nọ.
2. Quan họ:
Hát Quan họ là một sinh hoạt văn hóa giữa thanh niên nam nữ thuộc giới nông dân trong 49
Làng của tính Bắc Ninh, khi họ gặp gỡ nhau trong nhà của một chú điền hay trên thuyền trong một đêm sáng trăng, vào lúc Xuân Thu nhị kỳ, ngoài công việc đồng áng đề hát đối ca theo truyền thống cha ông để lại.
Hát Quan họ có rất nhiều nét đặc thù trong những phong tục (lập bọn, ngủ bọn, kết bạn, trang phục, ngôn ngữ), những canh hát chơi hay hát thi. Bài hát rất phong phú, ngôn ngữ âm nhạc rất đa dạng.
2.1. Lập bọn:
Thanh niên nam nữ trong một Làng có thể thành lập một hay nhiêu bọn, mỗi bọn có 7 nam (gọi là liên anh) hay 7 nữ (gọi là liên chị). Anh Cà, chị Cả là những người lớn tuổi, đứng đầu trong các bọn, không tham gia vào những cuộc hát đối, nhưng là những người sắp đặt, tổ chức những canh hát, thay mặt cho bọn để liên hệ với các bọn khác trong những cuộc gặp gỡ hát chơi hoặc hát thi. Mỗi bọn gôm có anh Hai, anh Ba, anh Tư, anh Năm, anh Sáu, không bao giờ có anh Bảy (các chị cũng thế). Anh Hai, chị Hai thường là những người hát hay nhất hoặc nhập bọn lâu năm nhất. Trong khi hát đối không nhất định anh Hai phải hát với chị Hai, mỗi người trong liên anh có thể tìm trong liên chị những người nào hát hợp giọng, hợp ý, hợp tình đề hát đối nhau, và sự chọn lựa đó phải được anh Cả, chị Cả và cả bọn đông ý.
2.2. Ngủ bọn:
Sau công việc đông áng, có nhiêu đêm những người cùng một bọn thường gặp nhau, ngủ chung trong một đêm và luyện tập cách hát, học những bài hát lề lối hay sáng tác những bài mới. Sau một cuộc hát thi nếu bị thua vì không đối câu, đối giọng được, thì cả bọn cố nhớ lại lời ca và giọng hát của bài Quan họ mà cả bọn không đối được, để tìm những câu, những giọng dùng đối lại nếu cần cho lần sau và có thể đặt những bài khác để lấy phần thắng.
2.3. Kết bạn:
Liên anh trong Làng này thường được kết bạn với liên chị tại Làng khác, để có thể tổ chức những cuộc gặp gỡ hát chơi. Công việc kết bạn do anh Cả, chị Cả của bọn đảm nhận. Khi đã đông ý sẽ tổ chức một buổi gặp gỡ giữa 2 bên trong một buổi ăn, tiếp theo đó sẽ có một canh hát chơi, trong dịp này các thành viên của mỗi bọn sẽ chọn người hát đối với mình và khi kết bạn, liên anh phải có một món quà đế tặng liền chị và ngược lại. Khi kết bạn rôi thì thương yêu, lo lắng cho nhau, nhưng không bao giờ được kết hôn với nhau, dầu vậy, khi liền anh hay liên chị ốm đau, thì người kết bạn đến lo thang thuốc. Sau khi lập gia đình cũng vẫn còn giữ tình thân thương, đứng đắn, không gây ra sự ghen tuông.
2.4. Trang phục:
Khi hát Quan họ liền anh mặc áo the đen, chít khăn đen, tay cầm ô. Liên chị mặc áo tứ thân, chít khăn mỏ quạ, tay cầm nón quai thao. Trang phục như thế rất trang nhã và đẹp. Cái ô là tượng trưng cho dương vật (linga – theo truyên thống Ấn Độ), nón quai thao tượng trưng cho âm vật (yoni). Như vậy, trong trang phục cũng có âm dương. Những chuyên gia Ấn Độ khi nghe tôi giới thiệu trang phục của liên anh, liên chị đều tỏ vẻ thích thú và khâm phục.
2.5. Ngôn ngữ :
Liền anh và liền chị không dùng ngôn ngữ bình thường, mà có cách nói văn hoa, trau chuốt, gọi nhau bằng anh, bằng chị và xưng em. Đôi khi có vẻ hơi khách sáo, nhưng rất dễ thương.
Thí dụ :
– Muốn mời bên nữ ăn thì bên nam nói bằng một giọng rất văn hoa, lễ phép: “Hôm nay liền chị đã có lòng sang chơi bên đất nước nhà em, anh em nhà em chạy được mâm cơm, thì đầu mâm đĩa muối, cuối mâm đĩa vừng, mâm đan bát đàn xin mời đường Quan họ dựng đũa lên chén để anh em nhà em được thừa tiếp” .
– Muốn mời bên nữ hát thì bên nam cất tiếng: “Xin mời liền chị bên ấy ca lên một canh đề rồi em sẽ tiếp”. Các chị thường nhún mình trả lời: “Các liền anh như ông Trăng sáng khắp cả bàn dân thiên hạ, chúng em chỉ như bóng đèn thấp thoáng trong nhà …”
2.6. Hát chơi hay hát thi:
Trong một canh hát chơi thường bắt đầu bằng những câu hát chào – hát mài (mời giầu), tiếp theo là những câu hát đối – hát đáp, đa số bài hát thuộc vẻ loại hát vặt, tả cảnh, tả tình (“Trèo lên quán dốc”, “Ngôi tựa mạn thuyền”, “Qua cầu gió bay” …). Khi sáp chia tay thì hất giã bạn, đôi khi liên anh và liên chị thật tình quyến luyến nhau, có thề hát giã bạn cả giờ, các bạn thường nói “đêm ngân tình dài”.
Một canh hát thi thường bát đầu bằng những bài hát lẻ lối (cái hời cái ả) tiếp theo là những bài hát đối – hát đáp, nếu không phải là những bài trong truyền thống, có thể trong liên anh hoặc liên chị sáng tác để làm cho đối phương lúng túng. Thường thì ngoài đối chữ còn có đối giọng. Kế tiếp là những bài hát thi, có những giọng rất khó hát và cuối cùng trước khi chia tay cũng hát bài giã bạn.
Trong cuộc thi có khi hát đé “lấy giải” (hiện vật hay tiên), có khi bên nào thua phải làm một bữa cơm đãi mọi người.
2.7. Bài hát:
Thường thì bài ca trong mỗi bài hát là những câu thơ Lục bát biến thé, có thêm nhiêu tiếng đệm đặc biệt cúa Quan họ như này a, ới a.
Thí dụ :
“Yêu nhau cởi áo cho nhau
Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay”
phải hát như sau :
“Yêu nhau cởi áo (ới a) cho nhau
Vê nhà (dối rằng cha) dối me aàaáa (này a ối a) qua cầu (hát 2 lần)
(tình tình tình) gió bay”
2.8. Ngôn ngữ âm nhạc:
Thang âm có rất nhiều loại (4, 5 âm) nhưng thường là 5 âm. Những nhà nhạc học đã nhận diện được nhiêu dạng thang 5 âm khác nhau.
Trong truyền thống Quan họ các nghệ nhân ít khi dùng danh từ điệu thức, nhưng khi phân tích một số bài Quan họ, thấy xuất hiện những đoạn trang nghiêm (như hơi nhạc trong giọng Bắc) hoặc buồn thảm (như hơi Ai hoặc Ai Oán trong giọng Nam), mà giọng trong truyền thống nhạc Tài tử miền Nam là điệu thức.
Tiết tấu thường có những nhịp đôi đơn giản, đều đặn, dê hát, ít khi có tiết tấu phức tạp.
Hát Quan họ không phải là một bộ môn “diễn xướng”, nhưng là một “đối ca nam nữ” đặc biệt của vùng Đông Nam Á. Nhưng truyền thống Quan họ rất phong phú, đa dạng. Cách hát Quan họ dịu dàng, uyển chuyển, duyên dáng. Hát Quan họ là một sinh hoạt văn hóa trong giới nông dân, rất tinh tế. Đó là một di sản văn hóa rãt quí của cha ông đế lại cho chúng ta.
3. Nhã nhạc Cung đình:
Từ xưa các nước Đông Á thường chia ra 2 loại:
– Ya yue (Trung Quốc), Gagaku (Nhựt Bồn), Ah ak (Triêu Tiên), Nhã nhạc (Việt Nam)
– Su yue (Trung Quốc), Zoku gaku (Nhựt Bổn), Sok ak (Triều Tiên), Tục nhạc (Việt Nam).
Nhã nhạc dùng trong Cung đình, Tục nhạc dùng trong Dân gian. Nhưng nội dung cúa Nhã nhạc và Tục nhạc khác nhau tùy theo mỗi nước trong Đông Á.
Ở nước Việt Nam, Nhạc Cung đình có một bề dày của lịch sử và bẻ sâu của nghệ thuật.
3.1. Lịch Sử:
Nhạc Cung đình bắt đầu xuất hiện khi nước Việt thoát khỏi sự đô hộ và trực trị của Trung Quốc để lập thành một quốc gia độc lập.
Nhưng dưới đời nhà Đinh và Tiền Lê không có sách sử nào ghi lại bằng văn bản hay các hình ảnh, hiện vật chạm trổ trên gỗ, trên đá để cho chúng ta biết dưới thời các vua đó đã có nhạc Cung đình hay chưa.
Tới đời Lý, tuy không có văn bản trong sách sử, nhưng có bức chạm ở chân cột chùa Phật Tích cho ta thấy các nhạc khí họp thành dàn nhạc đã được dùng trong các Đình, Chùa và trong cả Cung đình, vì dưới triều Lý các vua tôn trọng Phật giáo, cất Chùa trước khi cất Đền vua. Đến đời nhà Trần, theo sách An Nam Chí Lược của Lê Tác, có 2 loại nhạc: Đại nhạc (dùng vào Lê hội Cung đình) và Tiểu nhạc (dùng trong Dân gian). Đến đời nhà Lê, vua Lê Thái Tôn giao cho Nguyên Trãi và Lương Đăng định Nhã nhạc cho Triêu đình, nhưng Nguyễn Trải bất đồng ý kiến với Lương Đăng vẻ nhiêu điểm, nên dâng sớ xin từ chức. Lương Đăng phỏng theo nhạc nhà Nguyên và đặt 2 dàn nhạc: Đường Thượng chi Nhạc và Đường Hạ Chi Nhạc. Những người thức giá không ai tán thành và sau đó Thân Nhân Trung, Lương Thế Vinh và Đỗ Nhuận họp nhau lại đặt ra 2 đội: Đông văn và Nhã nhạc, nhưng lần lân đội Giáo phường (dùng trong Dân gian) thay thế Đông văn và Nhã nhạc trong các cuộc tế lé. Trong Cung cấm có đội Nữ nhạc diên tấu cho Hoàng hậu và Công chúa xem. Đến lúc nhà Lê suy, các chúa Trịnh lạm quyền và đặt ra đội Bã lịnh. Đến đời Tây Sơn thì sử ta không ghi chép lại, nhưng sử nhà Thanh, trong quyển “Đại Thanh Hội điến Sứ lệ” có ghi lại biên chế của một dàn nhạc Cung đình, có mặt trong đội Cửu tấu của nhà Thanh (từ 9 nước lân cận gửi đến Trung Quốc) mang tên “An Nam Quốc Nhạc”, biên chế dàn nhạc đó giống như biên chế của dàn Nhã nhạc lưu truyền đến ngày nay. Đến đời nhà Nguyên, nhất là dưới thời vua Minh Mạng, âm nhạc Cung đình được tổ chức rất hoàn chỉnh (theo quyển “Khâm định Đại Nam Hội điển Sử lệ” và “Minh Mạng chính yếu”),
3.2 Công dạng
Âm nhạc Cung đình được dùng trong các lễ hội lớn nhỏ như: Giao nhạc (Tế Nam Giao), Miếu nhạc (dùng trong các Thái Miếu, Thế Miếu, Văn Miếu), Ngũ Tự nhạc (5 cuộc lẻ tế Thần), Đại Triều nhạc (lê Vạn thọ của nhà vua tiếp sứ hay các buổi Đại triều), Thường Triêu nhạc (trong các buổi vua lâm triẻu ngày thường), Trung Cung Chi nhạc (để nhà vua tiêu khiển), Đại Yến nhạc (trong các buổi tiệc lớn), Cứu Nhựt Nguyệt Giao Trùng nhạc (trong những buổi Nhật thực – Nguyệt thực).
3.3 Biên chế
Hiện nay nhạc Cung đình gồm có :
– Đại nhạc: dàn nhạc trong đó Trống và Kèn đóng vai trò quan trọng, dùng trong các cuộc lẻ hội lớn.
– Nhã nhạc (cũng gọi là Tiểu nhạc hay Ti Trúc Tế nhạc): gồm có 2 ống sáo, 4 cây đàn (Nguyệt, Tỳ bà, Tam, Nhị), 3 nhạc cụ thuộc bộ gõ (Trống bản, Sênh tiên, Tam âm la)
Ngoài ra còn có đội Ba vũ (biểu diên múa Cung đình) và đội Hát Cung đình (loại hát Bội hay hát Tuồng).
3.4 Bài bán
Dàn Đại nhạc tấu các bản “Tam luân cửu chuyển”(cầu cho mưa hòa gió thuận),” Kèn cung Ai”(Thương nhớ Mẹ), “Mã Vũ-Bông-Man” (3 tiết tấu khác nhau), “Song tấu kèn trống” (ứng tác ứng tấu theo hai tiết tấu Mã Vũ và Du Xuân)
Dàn Nhã nhạc tấu các bản: “Thập thủ liên hoàn” (10 bản ngự), “Ngũ đối thượng”, “Long Ngâm”
Dàn Đại nhạc phụ họa theo các điệu múa cung đình: “Múa Tứ Linh” (Long, ly, qui, phượng”, “ Lân mẫu xuất lân nhi” (Lân mẹ sanh lân con), “Phụng Vũ “ (hai con chim phụng), “Phiến vũ” (múa quạt), “Trưng vương xuất trận” (múa kiếm), “Lục cúng Hoa đăng” (múa đèn hoa sen).
Hiện nay nhạc Cung đình gôm có :
– Đại nhạc: dàn nhạc trong đó Trống và Kèn đóng vai trò quan trọng, dùng trong các cuộc lẻ hội
lớn.
– Nhã nhạc (cũng gọi là Tiều nhạc hay Ti Trúc Tế nhạc)-, gôm có 2 ống sáo, 4 cây đàn (Nguyệt, Tỳ bà, Tam, Nhị), 3 nhạc cụ thuộc bộ gõ (Trống bản, Sênh tiên, Tam âm la)
Ngoài ra còn có đội Ba VÜ (biếu diễn múa Cung đình) và đội Hát Cung đinh (loại hát Bội hay hát Tuông)
3.5. Nghệ thuật:
Chỉ có nhà vua mới đủ quyên lực và ngân quĩ để chọn những nghệ sĩ giỏi nhất trong 3 miền, họp lại để làm một đội Ca vũ nhạc kịch Cung đình, với nghệ thuật biểu diễn tinh vi. Các nghệ sĩ đó có thời gian luyện tập đầy đủ và có điều kiện thuận tiện để sáng tác những nhạc phẩm, những điệu múa, những vở tuồng mang tính chất nghệ thuật cao.
Nhạc khí được đóng cẩn thận bằng những gỗ quí.
Trang phục cũng lộng lẫy.
Kỹ thuật biểu diễn được các nghệ nhân rành nghề trao lại cho các nghệ sĩ trẻ và luôn luôn được trau dồi, luyện tập, nên mức nghệ thuật biểu diễn rất cao. Bài bản có một số ít, nhưng đều được sáng tác mẫu mực.
Thang âm, điệu thức giống như thang âm, điệu thức dùng trong ca nhạc Huế, chỉ có tiết tấu là rất phong phú và tinh vi, nhất là trong những bản Đại nhạc.
Tư thế ngôi biểu diên, cách ôm đàn, cách khảy đàn hay kéo đàn cũng được quan tâm.
Trong Dân gian không có nhừng dàn nhạc nào được chăm sóc luyện tập trong chi tiết như những dàn nhạc trong Cung đình.
– Một loại nhạc có bê dày của lịch sứ, chiêu sâu của nghệ thuật, lại kết hợp những cái hay của nhiều nơi trên đất nước, đáng được nghiên cứu, báo tồn một cách nghiêm túc và sâu sắc, đừng đé mất đi cái gốc, cái bản sắc văn hóa và cần được truyên dạy cho đám học sinh những di sản quí báu mà cha ông đã lưu lại cho chúng ta.
B. CẢI BIÊN:
Theo thiến ý của tôi, chúng ta không có quyền “cải biên” các bộ môn nghệ thuật đã được Unesco tôn vinh. Cải biên là sửa đổi để cho một bộ môn nào đó được hoàn hảo hơn, nhưng chúng ta là người sanh sau, với tư cách gì và hiểu biết sâu rộng đến đâu về các bộ môn đó mà dám đề xướng công việc “sửa đổi” di sản của cha ông để lại? Nhưng một truyền thống nào cũng không phải bất di bất dịch, mà thường “thay đổi” theo niên đại, môi trường sống và quan điểm thẩm mỹ của quần chúng. Chúng ta có thế góp phần vào việc “phát triển” truyền thống và công việc này cũng chí có những nghệ nhân, nghệ sĩ nắm vững tay nghề mới có thế làm được. Công việc chúng ta có thể làm là “chấn chỉnh” các bộ môn nghệ thuật nói trên.
1. Ca trù:
Còn một số rất ít nghệ nhân đàn hát Ca trù có nhiêu kinh nghiệm trong việc giới thiệu và truyền dạy nghệ thuật Ca trù đúng theo lề lối của những Giáo phường hồi trước. Chúng ta nên ghi hình lại những cuộc biểu diễn và những buổi truyền nghề của các cụ.
Chúng ta cố tìm những thế cách còn có người biết mà ít được phổ biến để truyền lại cho thế hệ mai sau.
Ngoài những bài hát trong truyền thống, ngày nay có nhiều văn nhân, học giả sáng tác những bài Hát Nói, với phong cách cổ, đề tài mới, chúng ta nên thử nghiệm, trình diễn để nhận được sự phản ứng của thính giả.
Ca trù là một nghệ thuật thính phòng rất tinh vi và tế nhị, không thể “sân khấu hóa” Ca trù.
Nhưng cần phổ biến nghệ thuật đó trong giới thanh niên, sinh viên, học sinh, không phải để cho các bạn trẻ trở thành những ca nương — kép đàn, nhưng để các bạn trẻ tiếp cận với những nét nghệ thuật cơ bản và tập cho các bạn biết nghe và thưởng thức nghệ thuật Ca trù. Sau này những nghệ nhân, nghệ sĩ nắm được tinh hoa của Ca trù có thể sáng tác những bài Ca trù mới dựa trên lề lối và phong cách của Ca trù cổ. Nếu có những cách hát, đàn theo một phong cách mới thì không thể mang tên là Ca trù, mà có thể được gọi là “bài bản phỏng theo Ca trù”. Như tôi thường nói sáng tác mới là một con dao hai lưỡi, nếu nắm vững truyền thống, có năng khiếu sáng tác, có thể tạo ra những nhạc phẩm hay theo phong cách của Ca trù, hay áp dụng kỹ thuật hát, đàn, gõ phách. Nếu không thành công thì sáng tác đó có thế làm biến chất Ca trù, mất đi bản sác dân tộc.
2. Quan họ:
Quan họ là một “trò chơi” giữa những người nông dân nam nữ, nên không thể “cải biên” cho nó thành một tiết mục biểu diễn trong những chương trình văn nghệ hay trên một sân khấu. Có thể đặt những bài mới để phù hợp với hoàn cảnh, môi trường mới như loại bài “Con chim thước” hay các nghệ nhân có thế sáng tác lời ca và làn điệu phỏng theo truyên thống ngày xưa mà nội dung mới.
Việc sử dụng nhạc khí để phụ họa theo lời ca nên hạn chế. Có thể dùng nhạc khí Việt Nam như đờn Nguyệt, đờn Nhị, ống Sáo, ống Tiêu..không thể dùng những nhạc khí phương Tây như organ, guitar, violon. Nên tham khảo ý kiến các nghệ nhân lão thành về việc này.
3. Nhả nhạc Cung đình :
Đã là một kiệt tác di sản truyền khẩu Phi vật thể của nhân loại, thì chúng ta không có quyền cải biên. Có lúc thay vì dùng 1 đàn Nguyệt trong ban Nhã nhạc, lại dùng thêm 4,5 đàn Nguyệt khác, đàn Bầu, đàn Tranh, đàn Tam Thập Lục vào biên chế của Nhã nhạc, người đàn trước nay hoàn toàn là phái nam, lại có thêm nữ nhạc công… đó là những điểm sai lầm cần sửa đổi.
Hiện nay các dàn Đại nhạc và Nhã nhạc được các lãnh đạo của Trung tâm Bảo tôn Di tích Cố đô Huế “chấn chỉnh” lại rất tốt, dùng trở lại những nhạc khí cổ như Tỳ Bà cố 4 “tượng” phía trên, đàn Nguyệt không nhiêu phím như đàn Nguyệt dùng trong chầu văn, ống đàn Nhị khác hẳn ống đàn Nan Hu (Nam Hô của Trung Quốc). Trang phục được may lại như ngày xưa. Cách đàn khi đứng, lúc ngồi cũng được đồng bộ. Cách biểu diễn chẳng những đúng câu, đúng nhịp, mà có thân hơn trước.
c. KẾT LUẬN:
Cũng như trong các bộ môn nhạc, vũ, kịch truyền thống, nghệ sĩ ngày nay (nhất là những người chỉ thông thạo nhạc phương Tây mà không rành vẻ nhạc cổ) không nên làm công việc cải biên.
Công việc khẩn cấp là cố giữ gìn cho nguyên vẹn như ngày xưa và chỉ nghĩ đến việc phát triển từ bên trong, chớ không phải vay mượn bừa bãi từ bên ngoài. Như vậy chúng ta mới giữ vững được bản sắc văn hóa dân tộc.
Trên đây là những ý kiến của tôi, tôi chờ đợi có những quan điểm khác để cùng nhau thảo luận và tìm một hướng đi đúng đắn cho công việc Bảo tôn và phát triển nhạc, vũ, kịch truyên thống.
GS-TS. Trần Văn Khê – Nguồn: Kỷ yếu hội thảo
Tin cùng chuyên mục:
Khó khăn và giải pháp khắc phục trong triển khai nhiệm vụ nộp lưu tài liệu lưu trữ số
Thực trạng triển khai công tác lưu trữ điện tử của Ủy ban Dân tộc
Văn học Sài Gòn 1954-1975 những chuyện bên lề
Sài Gòn 1698-1998 Kiến trúc quy hoạch