VÀI NÉT VỀ MỘC BẢN TRIỀU NGUYỄN VÀ BẢN KHẮC CỔ NHẤT VỀ CHIẾU DỜI ĐÔ
CỦA LÝ CÔNG UẨN NĂM 1010
Phạm Thị Huệ
I. Sơ lược về Mộc bản triều Nguyễn – Di sản tư liệu thế giới:
Tài liệu Mộc bản triều Nguyễn đang bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV (số 02 – Yết Kiêu – Phường 5 – TP. Đà Lạt) được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thế giới ngày 30/7/2009. Đây là lần đầu tiên Việt Nam nhận được sự vinh danh này của UNESCO.
Tài liệu Mộc bản triều Nguyễn là những văn bản, tác phẩm được khắc chữ Hán – Nôm ngược lên những tấm gỗ để in ra thành sách.
Năm Minh Mạng thứ 2 (1821), nhà Nguyễn cho lập Quốc sử quán để biên soạn quốc sử, thực lục các triều vua và sách chuyên khảo về giáo dục, địa chí … dựa trên các sách cổ và những tài liệu được hình thành trong quá trình hoạt động của triều đình và các bộ, nha, trấn, thành … như chiếu, dụ, chỉ của nhà vua đã được đưa ra thi hành; các phiến, tấu, sớ, sách của các cơ quan và địa phương đã được vua phê duyệt và hầu bửu – bản chính của các văn bản trên được gọi là Châu bản. Theo lệ định, Châu bản được giao cho Nội các để sao chép lời Ngự phê vào hai phó bản; khi sao chép và hầu bửu xong, Nội các gửi một phó bản cho Quốc sử quán để làm tài liệu biên soạn các sách.
Bản thảo sách sau khi biên soạn xong, được kiểm tra, bổ sung, chỉnh sửa qua nhiều khâu, cuối cùng được chép “tinh tả” rõ ràng theo nguyên bản, kèm theo biểu dâng sách tiến trình Hoàng đế “Ngự lãm”. Sau khi nhà vua xem xong và phê duyệt, bản thảo được giao cho thợ khắc in, khắc lên những tấm gỗ (mộc bản) để in ra nhiều bản. Mộc bản sau khi in xong, được đưa vào bảo quản ở Tàng bản đường trong Quốc sử quán.
Trong hơn một thế kỷ tồn tại, Quốc sử quán triều Nguyễn đã biên soạn nhiều bộ sách sử có giá trị như Đại Nam thực lục, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam nhất thống chí … Đồng thời, Quốc sử quán cũng đã tạo ra một khối lượng lớn tài liệu Mộc bản, chủ yếu là ván khắc in những tác phẩm chính văn, chính sử của vương triều Nguyễn …
Mộc bản triều Nguyễn đang bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV, phần lớn là những bộ ván khắc in những tác phẩm được triều đình nhà Nguyễn biên soạn, ngoài ra còn bao gồm cả những ván khắc in các sách kinh điển của nhà nho dùng để dạy và học, một số bộ chính sử khắc từ thời Lê được thu ở Văn miếu Quốc tử giám Hà Nội đưa vào Huế và lưu trữ ở Quốc tử giám dưới thời vua Minh Mạng và Thiệu Trị.
Gỗ dùng làm ván khắc tài liệu Mộc bản triều Nguyễn vừa mềm, vừa mịn. Theo tài liệu của triều Nguyễn để lại, gỗ dùng để khắc Mộc bản triều Nguyễn là gỗ thị, gỗ lê, gỗ táo hay gỗ cây nha đồng. Thớ gỗ trắng, sáng ngời như ngà voi. Nét chữ khắc trên tài liệu Mộc bản rất điêu luyện, tinh xảo và sắc nét. Mỗi nét chữ như rồng bay phượng múa, chuyển tải tâm tư, tình cảm và tâm huyết của người thợ khắc in. Mỗi tấm Mộc bản không chỉ là một trang tài liệu quý có giá trị lịch sử mà còn là một tác phẩm nghệ thuật.
Nội dung của khối tài liệu này rất phong phú và đa dạng, phản ánh mọi mặt của xã hội Việt Nam dưới triều Nguyễn như: lịch sử; địa lý; chính trị – xã hội; quân sự; pháp chế; văn hóa – giáo dục; tôn giáo – tư tưởng – triết học; văn thơ; ngôn ngữ – văn tự. Tổng cộng có 152 đầu sách với 1.935 quyển.
Về lịch sử: có 30 bộ sách gồm 836 quyển: ghi chép về lịch sử Việt Nam thời Hùng Vương dựng nước cho đến triều Nguyễn.
Về địa lý: có 02 bộ sách gồm 20 quyển: ghi chép về địa lý đã thống nhất ở Việt Nam và ghi chép về Hoàng thành Huế.
Về chính trị – xã hội: có 05 bộ sách gồm 16 quyển: ghi chép về sách lược của các triều đại phong kiến Việt Nam.
Về quân sự: có 05 bộ sách gồm 151 quyển: ghi chép về việc đánh dẹp các cuộc nổi dậy ở Bắc Kỳ, Nam Kỳ, Bình Thuận và một số nơi khác.
Về pháp chế: có 12 bộ sách gồm 500 quyển: ghi chép về điển chế và pháp luật triều Nguyễn.
Về văn hóa – giáo dục: có 31 bộ sách gồm 93 quyển: ghi chép về những nhân vật đỗ cử nhân và tiến sĩ triều Nguyễn.
Về tư tưởng – triết học – tôn giáo: có 13 bộ sách gồm 22 quyển: ghi chép về phương pháp tiếp cận kinh điển Nho gia.
Về văn thơ: có 39 bộ gồm 265 quyển: ghi chép thơ văn của các bậc Đế vương và Nho gia nổi tiếng Việt Nam …
Về ngôn ngữ văn tự: có 14 bộ sách gồm 50 quyển: giải nghĩa luận ngữ bằng thơ Nôm.
Ngoài giá trị đối với lịch sử và văn hóa Việt Nam, tài liệu Mộc bản triều Nguyễn còn có giá trị khi tìm hiểu lịch sử văn hóa các nước khác trên thế giới như: Lào, Campuchia, Thái Lan, Trung Quốc, Pháp, Anh, Mỹ, Bồ Đào Nha, …
Đặc biệt, trong khối tài liệu quý giá này, có những nội dung khẳng định chủ quyền thiêng liêng của Việt Nam đối với Quần đảo Hoàng Sa.
II. Bản khắc cổ nhất về CHIẾU DỜI ĐÔ CỦA LÝ CÔNG UẨN năm 1010
Cách đây đúng 1000 năm, sau khi lên ngôi, Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) cho dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Đại La, đổi tên thành Thăng Long (tức Hà Nội ngày nay).
Công Uẩn vốn họ Nguyễn, người Cổ Pháp (Bắc Ninh), mẹ họ Phạm. Ông sinh ngày 17 tháng 2, niên hiệu Thái Bình năm thứ 5 (974). Năm ông 3 tuổi, mẹ phải nhờ nhà sư Lý Khánh Văn nuôi hộ. Sau này ông lấy họ của cha nuôi, gọi là Lý Công Uẩn. Từ nhỏ, ông có tư chất thông minh. Khi học ở chùa Lục Tổ, thiền sư Vạn Hạnh gặp ông đã nhận xét: “Đây là người phi thường, sau này lớn lên tất có thể cứu đời, yên dân, làm chúa thiên hạ”. Ông vốn khảng khái, có chí lớn, say mê kinh sử. Lớn lên, ông là người tinh thông kinh sách, giỏi võ nghệ, theo phò vua Lê Trung Tông. Khi Lê Trung Tông bị Lê Ngọa Triều giết, quần thần đều chạy trốn, duy chỉ còn một mình ông ở lại ôm vua mà khóc. Lê Ngọa Triều nể phục khen là trung, phong cho làm Tả Thân vệ Điện tiền Chỉ huy sứ. Vua Lê Ngọa Triều ăn chơi trác táng …, không lo việc triều chính – chính sự đổ nát, lòng dân oán hận.
Tháng 11 năm 1009, Lê Ngọa Triều chết, Lý Công Uẩn được đưa lên làm vua. Khi lên ngôi, ông xuống chiếu đại xá thiên hạ, lấy niên hiệu là Thuận Thiên. Năm 1010 là năm Thuận Thiên thứ nhất.
Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, ông thấy thành Hoa Lư chật hẹp, kinh tế (nông, công, thương) kém phát triển, giao thông gặp nhiều khó khăn…, không đủ làm chỗ ở của đế vương, bởi vậy ông đã quyết định dời đô ra Đại La vào năm Thuận Thiên thứ nhất (1010). Nhà vua tự tay viết Chiếu dời đô. Tháng 7 năm ấy, Lý Công Uẩn từ Hoa Lư ra Đại La, thuyền đỗ ở dưới Thành, thấy Rồng Vàng hiện lên Thuyền Ngự, nhân đó đổi tên Đại La thành Thăng Long (nghĩa là rồng bay). Sau đó, ông xây dựng kinh thành đàng hoàng, nhân dân các nơi đổ về làm ăn sinh sống vui vẻ. Trong những năm trị vì, ông thường xuyên chăm lo ổn định tình hình chính trị, củng cố thống nhất, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, ngoại giao, cải cách chế độ thuế khóa, đề cao Phật giáo, tổ chức lại bộ máy nhà nước .v.v…
Tháng 4 năm 1028, ông mất, miếu hiệu là Cao Thái Tổ.
Sự kiện Lý Công Uẩn cho dời đô từ Hoa Lư về Đại La (Thăng Long) là sự kiện trọng đại trong tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.Việc dời đô ra Thăng Long thể hiện ý chí tự cường của dân tộc. Việc chọn Thăng Long là trung tâm đầu não về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…, mở ra trang sử vô cùng rực rỡ cho nền văn hiến nước nhà.
Từ trước đến nay có rất nhiều công trình đề cập đến Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn, song đó chỉ là những bản sao, bản chụp. Nhân kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, chúng tôi xin giới thiệu với các nhà nghiên cứu, với công chúng trong nước và quốc tế bản khắc Mộc bản “Chiếu dời đô”. Đây là bản gốc duy nhất.
Bản gốc Mộc bản CHIẾU DỜI ĐÔ CỦA LÝ CÔNG UẨN nằm trong bộ sách “Đại Việt sử ký toàn thư” (kỷ Lý Thái Tổ – quyển 2 – mặt khắc 2), thuộc khối tài liệu Mộc bản triều Nguyễn – Di sản tư liệu thế giới, hiện đang bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV, ký hiệu H 31/8. Đây là bản khắc chữ Hán ngược, khổ khuôn in 20 x 29,5 cm, kích thước tấm Mộc bản là 41×21,2 cm, dày 3 cm. Toàn bộ Chiếu dời đô có 214 chữ (không kể phần chú thích).
Bộ sách “Đại Việt sử ký toàn thư” là một bộ sử biên niên chép lịch sử Việt Nam từ thời Hồng Bàng đến thời Lê Trung Hưng (1675). Tác phẩm được biên soạn từ cuối thế kỷ XIII đến cuối thế kỷ XVII. Là một bộ quốc sử lớn và là một bộ quốc sử đầu tiên của Việt Nam còn lưu truyền đến nay. Bộ sử này được khắc in toàn bộ và công bố lần đầu tiên vào năm Đinh Sửu, niên hiệu Chính Hòa thứ 18, triều Lê Hy Tông (năm 1697), và là bộ sử Việt Nam cổ nhất còn tồn tại nguyên vẹn đến ngày nay, do nhiều sử gia từ thời nhà Trần đến nhà Hậu Lê biên soạn.
Theo “Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ” thì, năm Minh Mạng thứ 8 (1827): “sai quan Bắc Thành kiểm xét những ván in nguyên trữ ở Văn Miếu (Quốc tử giám Hà Nội – TG) về các sách Ngũ kinh, Tứ thư đại toàn, Vũ kinh trực giải (bản in của Quốc tử giám nhà Lê) cùng chính sử trước sau … và Tứ trường văn thể … gửi về kinh, để ở Quốc tử giám (Huế – TG)”.
Theo sách: “Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ” (quyển 261) thì, năm Minh Mạng thứ 9 (1828), “in chính sử xưa nay của Bắc Thành 30 bộ để ban cấp”.
Theo tài liệu lưu trữ của Nha Văn khố Quốc gia thì, năm 1960, Mộc bản triều Nguyễn được chuyển từ Huế vào Đà Lạt, lưu trữ tại Chi nhánh Văn khố Đà Lạt. Mộc bản triều Nguyễn phần lớn là những tài liệu được sản sinh ra trong quá trình hoạt động của Nội các, Quốc tử giám, Quốc sử quán triều Nguyễn; thành phần chủ yếu là những bộ ván khắc những tác phẩm chính văn, chính sử… của triều đình nhà Nguyễn. Ngoài ra còn có một số Mộc bản các tác phẩm khác khắc từ trước thời Nguyễn, được thu ở Văn miếu Quốc tử giám (Hà Nội) về bảo quản ở Quốc tử giám (Huế) vào thời Minh Mạng và Thiệu Trị.
Sau năm 1975, Mộc bản triều Nguyễn do Sở Lưu trữ Phủ Chủ tịch Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam quản lý; từ năm 1976, được giao về Cục Lưu trữ Nhà nước (nay là Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước). Hiện nay, tài liệu Mộc bản triều Nguyễn được bảo quản ở Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV tại Đà Lạt.
Như vậy, Mộc bản bộ sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, trong đó khắc CHIẾU DỜI ĐÔ CỦA LÝ CÔNG UẨN đang bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV có thể là bản khắc từ thời Lê (1697). Cũng có giả thiết cho rằng, “Đại Việt sử ký toàn thư” được khắc lại vào thời Nguyễn (khoảng 1802-1807). Về vấn đề này, để đi đến kết luận, cần phải có thời gian và có sự nghiên cứu kỹ hơn của các nhà chuyên môn. Nhưng dù là bản khắc từ thời Lê hay thời Nguyễn, thì “Chiếu dời đô”cũng là di sản rất quý, vì đây là bản khắc cổ nhất còn lại của Việt Nam tính đến thời điểm hiện nay.
Cũng xin nói thêm rằng, Chiếu là một loại văn cung đình do nhà vua viết để ban bố một chủ trương, hay một chính sách cụ thể có tính chất giáo lệnh. Chiếu xuất xứ từ sách “Thượng thư”, hình thức diễn đạt và chữ nghĩa cũng thường mượn từ sách này. Lời văn trang trọng, mạch lạc, giàu sức thuyết phục. Đây là thể văn quan phương – thể văn của triều đình, không có sự giao tiếp qua lại. Cuối bài Chiếu thường có một câu hỏi, nhưng hỏi để mà hỏi, chứ không cần trả lời. Đó là công thức của một bài chiếu. Vì vậy, nhiều người hiểu lầm, có những công trình trước đây cho rằng, đây là Chiếu của vua hỏi ý kiến quần thần về việc dời đô là không đúng. Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn là một chủ trương, là một quyết định dời đô từ Hoa Lư ra Đại La, được vua ban bố để thực hiện.
Bài chiếu được bố cục rất chặt chẽ, lời văn khúc triết, đầy sức thuyết phục. Đầu tiên nhà vua đưa ra một vài ví dụ xưa, ca ngợi và chứng minh sự dời đô của các vua Trung Quốc đã đem lại sự phồn thịnh cho đất nước:“Xưa, nhà Thương đến đời Bàn Canh 5 lần dời đô; nhà Chu đến đời Thành Vương 3 lần dời đô; đâu phải các vua thời Tam đại đều theo ý riêng của mình mà tự tiện dời đô xằng bậy”. Mục đích và lợi ích của việc dời đô của các vua Trung Quốc là: “mưu nghiệp lớn, chọn ở nơi chính giữa, dựng kế cho con cháu muôn đời; trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện lợi thì dời đổi, cho nên vận nước dài lâu, phong tục giàu thịnh”. Sau đó nhà vua phê phán và nêu tác hại của việc không dời đô của các vua đời trước: “Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ của Thương, Chu, cứ chịu đóng đô ở yên nơi đây”. Và hậu quả là: “đến nỗi vận thế không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ hao tổn, muôn vật không tươi tốt”. Sau khi nghiên cứu từ cổ tới kim, tác giả xem xét hiện tại, phân tích vị trí thành Đại La và thấy rằng: “thành Đại La, …ở giữa khu vực đất trời, được thế rồng chầu – hổ phục, chính giữa nam – bắc – đông – tây, tiện nghi núi sau – sông trước. Vùng này, mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa; dân cư không phải chịu khổ vì thấp trũng, tối tăm; muôn vật hết sức tốt tươi phồn thịnh”. Nhà vua khẳng định vị trí trọng yếu của thành Đại La đối với việc xây dựng và phát triển đất nước: “Xem khắp nước Việt, đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời”. Và cuối cùng nhà vua quyết định: “Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở”.
Với cách lập luận sắc sảo như trên, bài Chiếu ban ra đã thu phục được lòng người, quần thần trên dưới nhất mực tuân theo.
Sau đây, chúng tôi xin phiên âm và dịch nguyên văn CHIẾU DỜI ĐÔ CỦA LÝ CÔNG UẨN để độc giả tham khảo.
Bản gốc và bản dập Mộc bản CHIẾU DỜI ĐÔ CỦA LÝ CÔNG UẨN – năm 1010
Phiên âm:
“Tích Thương gia chí Bàn Canh ngũ thiên. Chu thất đãi Thành Vương tam tỉ. Khởi Tam đại chi sổ quân tuẫn vu kỷ tư, vọng tự thiên tỉ. Dĩ kỳ đồ đại trạch trung, vi ức vạn thế tử tôn chi kế. Thượng cẩn thiên mệnh, hạ nhân dân chí, cẩu hữu tiện triếp cải, cố quốc tộ diên trường, phong tục phú phụ. Nhi Đinh Lê nhị gia, nãi tuẫn kỷ tư, hốt thiên mệnh, võng đạo Thương Chu chi tích, thường an quyết ấp vu tư, trí thế đại phất trường, toán số đoản xúc, bách tính hao tổn, vạn vật thất nghi. Trẫm thậm thống chi, bất đắc bất tỉ.
Huống Cao Vương cố đô Đại La thành, trạch thiên địa khu vực chi trung, đắc long bàn hổ cứ chi thế, chính nam bắc đông tây chi vị, tiện giang sơn hướng bội chi nghi. Kỳ địa quảng nhi thản bình, quyết thổ cao nhi sảng khải, dân cư miệt hôn điếm chi khốn, vạn vật cực phồn phụ chi phong. Biến lãm Việt bang, tư vi thắng địa, thành tứ phương bức thấu chi yếu hội, vi vạn thế kinh sư chi thượng đô.
Trẫm dục nhân thử địa lợi dĩ định quyết cư. Khanh đẳng như hà?”
Dịch nghĩa:
“Xưa, nhà Thương đến đời Bàn Canh 5 lần(1)dời đô; nhà Chu đến đời Thành Vương 3 lần(2)dời đô; đâu phải các vua thời Tam đại(3)đều theo ý riêng của mình mà tự tiện dời đô xằng bậy. Làm như thế cốt là để mưu nghiệp lớn, chọn ở nơi chính giữa, dựng kế cho con cháu muôn đời; trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện lợi thì dời đổi, cho nên vận nước dài lâu, phong tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ của Thương, Chu, cứ chịu đóng đô ở yên nơi đây, đến nỗi vận thế không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ hao tổn, muôn vật không tươi tốt. Trẫm rất đau lòng, không thể không dời đổi. Huống chi thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương (4), ở giữa khu vực đất trời, được thế rồng chầu – hổ phục, chính giữa nam – bắc – đông – tây, tiện nghi núi sau – sông trước. Vùng này, mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa; dân cư không phải chịu khổ vì thấp trũng, tối tăm; muôn vật hết sức tốt tươi phồn thịnh. Xem khắp nước Việt, đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời. Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?”
Chiếu dời đô và việc dời đô năm 1010 của Lý Công Uẩn cho thấy, Lý Công Uẩn là một vị vua tài giỏi, mưu lược, có tầm nhìn chiến lược cho sự phát triển lâu dài của đất nước. Thành Đại La (tức Thăng Long) – Hà Nội ngày nay, quả là nơi “Thượng đô kinh sư mãi muôn đời” như Lý Công Uẩn đã từng khẳng định trong Chiếu dời đô, cách đây 1000 năm.
- Những người âm thầm hướng về Thăng Long – Hà Nội
Trong quá trình khảo sát, tra tìm tài liệu Mộc bản triều Nguyễn để lựa chọn những Mộc bản liên quan đến Thăng Long – Hà Nội, cán bộ viên chức Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV đã tìm thấy những tấm Mộc bản, khắc những tác phẩm bất hủ như Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn năm 1010; bài thơ thần Nam quốc sơn hà; Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn; Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi… trong khối Mộc bản triều Nguyễn.
Khi tìm thấy những tấm Mộc bản khắc các tác phẩm này, đặc biệt là khi tìm thấy Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn được viết cách đây đúng 1000 năm, họ không sao tả nổi niềm vui của mình. Bởi trong số họ, có người đã gắn bó gần cả cuộc đời công chức của mình với Mộc bản triều Nguyễn, ngay từ khi Mộc bản triều Nguyễn còn là một kho những tấm gỗ khắc chữ Hán Nôm ngược nằm lộn xộn, chưa biết nội dung của chúng nói gì. Dưới sự chỉ đạo của Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước – Bộ Nội vụ, họ đã thực hiện nhiều khâu nghiệp vụ, để đến nay mọi người biết được giá trị của tài liệu Mộc bản triều Nguyễn, và UNESCO đã công nhận tài liệu Mộc bản triều Nguyễn là Di sản tư liệu thế giới. Thế nhưng mãi đến hôm nay (ngày 24.5.2010), trong khối tài liệu Mộc bản triều Nguyễn đồ sộ ấy (34.618 tấm), họ mới tìm thấy những di sản quý giá này.
Trong không khí cả nước đang hướng về Thăng Long – Hà Nội, được sự chỉ đạo của Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước – Bộ Nội vụ, từ cuối tháng 4.2010, lãnh đạo và viên chức Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV đã và đang thực hiện một loạt công trình để chào mừng 1000 năm Thăng Long – Hà Nội. Những ngày này, nếu đến thăm quan Khu trưng bày tài liệu Lưu trữ quốc gia tại Trung tâm, trong đó có Mộc bản triều Nguyễn, các nhà nghiên cứu và du khách sẽ được chứng kiến sự lao động tích cực, tâm huyết và đầy trách nhiệm của cán bộ viên chức Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV. Đặc biệt là Giám đốc Trung tâm và cán bộ viên chức Phòng Tài liệu Mộc bản. Phòng Tài liệu Mộc bản mới thành lập, chỉ có 3 người: Phạm Thị Yến, Nguyễn Thị Nhật Phương, Bùi Thị Mai. Tất cả là cử nhân Hán Nôm được đào tạo từ Đại học Khoa học Huế. Giám đốc trực tiếp chỉ đạo mọi hoạt động chuyên môn của Phòng. Hiện nay, với số lượng rất ít người biết chữ Hán Nôm (4 người – kể cả Giám đốc), Trung tâm đang phải xử lý một khối lượng công việc rất lớn. Trước hết, đang ráo riết tra tìm, dịch thuật, biên soạn 2 cuốn sách công bố Mộc bản triều Nguyễn liên quan đến Thăng Long –Hà Nội, để kịp ra mắt bạn đọc đúng vào dịp Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội; chuẩn bị nội dung Mộc bản cho bộ phim tư liệu “Dấu ấn Thăng Long – Hà Nội qua Mộc bản triều Nguyễn”; thực hiện Khu trưng bày Mộc bản triều Nguyễn ngoài trời tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV, với chủ đề “Mộc bản triều Nguyễn nói về Thăng Long – Hà Nội” để phục vụ du khách trong nước và quốc tế nhân dịp Đại lễ; thực hiện nhiều pano quảng bá Mộc bản triều Nguyễn tại cổng sân bay quốc tế Liên khương và những điểm đông khách du lịch trong Tp. Đà Lạt. Đặc biệt nhất, Trung tâm đang chuẩn bị một món quà tặng rất có ý nghĩa để Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước trao tặng UBND Tp. Hà Nội vào dịp Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội.
Để phục vụ các công trình trên, các cử nhân Hán Nôm phải sưu tầm trong khối Mộc bản đồ sộ đang lưu trữ để tìm ra những nội dung liên quan đến Thăng Long – Hà Nội, sau đó dịch và biên soạn. Hơn 3 tháng qua, họ đã phải “chạy đua” với thời gian bằng cách làm việc cả ngày, tối nào cũng làm việc đến 10h đêm mới nghỉ, không nghỉ ngày thứ bảy và chủ nhật. Riêng Giám đốc, có khi thức thâu đêm để kiểm tra và sửa chữa bản dịch. Họ đã làm việc với tất cả lòng say mê nghề nghiệp, với trách nhiệm và tình cảm của mình – những người đang sống xa Hà Nội – dành cho Thăng Long – Hà Nội nhân dịp Đại lễ kỷ niệm 1000 năm.
Tài liệu tham khảo:
Hồ sơ số H 31/8, Đại Việt sử ký toàn thư, quyển 2, Mộc bản triều Nguyễn – Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV
Chú thích:
(1). Năm lần dời đô: Vua Thành Thang đóng đô ở phía đông nam huyện Thương Khâu (nay thuộc Hà Nam, Trung Quốc); đời Trọng Đinh dời đô đến huyện Thành Cao (cũng thuộc Hà Nam); đời Hà Đản Giáp dời đô đến phủ Chương Đức (Hà Nam); đời Tổ Ất dời đô đến phủ Thuận Đức (nay thuộc Hà Đông, Trung Quốc); đời Bàn Canh dời đô đến huyện Yển Sư (Hà Nam).
(2). Ba lần dời đô: Chu Văn Vương đóng đô ở phía đông huyện Hộ (tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc); Chu Vũ Vương dời đô đến huyện Trường Yên (tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc). Chu Thành Vương dời đô đến huyện Lạc Dương (tỉnh Hà Nam, Trung Quốc).
(3). Thời Tam đại: chỉ 3 nhà Hạ, Thương, Chu thuộc Trung Quốc Cổ đại.
(4). Cao Vương: là Cao Biền, người nhà Đường, quan đô hộ Giao Châu vào khoảng năm 864 – 875. Cao Biền xây thành Đại La (Hà Nội ngày nay) vào khoảng năm 866.
Tin cùng chuyên mục:
Khó khăn và giải pháp khắc phục trong triển khai nhiệm vụ nộp lưu tài liệu lưu trữ số
Thực trạng triển khai công tác lưu trữ điện tử của Ủy ban Dân tộc
Văn học Sài Gòn 1954-1975 những chuyện bên lề
Sài Gòn 1698-1998 Kiến trúc quy hoạch