Nguyễn Thị Việt
Trương Minh Ký là học trò xuất sắc của Trương Vĩnh Ký. Ông sinh ngày 23 tháng 10 năm 1855, mất ngày 11 tháng 8 năm 1900, tự Thế Tải, hiệu Mai Nham (thuộc dòng dõi Trương Minh Giảng (?- 1841). Người đã giữ chức Thượng thư kiêm Khâm thiên giám dưới triều Nguyễn). Cha là Trương Minh Cẩn, mẹ là Phạm Thị Nguyệt, quê ở làng Tân Thới, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định, nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh. Tên thật là Trương Minh Ngôn, vì ngưỡng mộ thầy dạy Trương Vĩnh Ký nên đổi tên thành Trương Minh Ký với ước nguyện nối được chí lớn của thầy. Là người thông Hán và giỏi Pháp văn, lại tiếp thu tư tưởng Tây học, Ông và những học giả cùng thời là những tác gia tiên phong trong việc truyền bá chữ Quốc ngữ ở Việt Nam, cũng như tiếp thu nền văn hóa “tiên tiến” của các nước phương Tây để xây dựng văn hóa Việt Nam văn minh hơn vào những năm cuối thế kỷ XIX.
Vào năm Canh Thìn (năm 1880), Ông được triều đình cử dẫn 10 du học sinh (trong đó có Nguyễn Trọng Quản – tác giả của cuốn truyện bằng chữ quốc ngữ đầu tiên của nước ta Thầy Lazaro Phiền), Diệp Văn Cương – chủ bt tờ Phan Yến bo…) sang học tại Algérie. Cuộc hành trình qua châu Âu và Bắc Phi này được Ông ghi lại qua Thiên du ký dài khoảng 2000 câu thơ thể song thất lục bát, tựa đề “Như Tây Nhật Trình”, khởi đăng trên Gia Định báo từ ngày 10/4/1888.
Đây không đơn thuần là Thiên du ký bằng thơ Quốc ngữ, ghi lại cảm nhận, cảm xúc có đôi chút lo lắng của một người “An nam” lần đầu được đi xa, lần đầu được tiếp xúc với nền văn hóa của các nước tư bản chủ nghĩa châu Âu, châu Mỹ. Hơn thế, ẩn sau những câu thơ lục bát còn có rất nhiều dấu ấn lịch sử của các vùng văn hóa mà ông đã đi qua. Vì vậy, Thiên du ký của Trương Minh Ký và của nhiều tác giả khác cùng thời (như Phạm Quỳnh) không chỉ có tính nghệ thuật mà còn là một cứ liệu quý giá đối với công tác nghiên cứu lịch sử.
Cuộc hành trình trên con tàu Tarn([1]) từ Gia Định đi Alger (thủ đô của An-giê-ri, một đất nước Bắc Phi nằm trên bờ Địa Trung Hải, thời điểm này là thuộc địa của thực dân Pháp), mỗi chặng đường đều được Ông ghi lại cụ thể rõ nét.
Tối ngày 9/2/1880, tàu từ sông Sài Gòn theo cửa biển Cần Giờ tiến ra biển. Ngày 11/2, tàu đi qua Côn Đảo, nơi đang lưu đày gần 1000 tù nhân. Họ bị bắt làm gạch, đào hầm than, kéo chài lưới, “đóng dầu chai”….
Ngày 12/2, tàu ghé Hội An lấy than. Theo ghi chép của Ông, Hội An lúc này đã là một phố cảng sầm uất: ngoài khơi tàu đậu “dăn dăn”; trên bờ xe ngựa “chạy liền ngày đêm”; hai bên đường “phố lầu” cất ngay hàng, lại có một vài trường dạy tiếng “ngoại quốc”. Cùng với sự phát triển của kinh tế – xã hội là nếp sống lai căng của văn hóa thực dân với nha phiến bày bán công khai; cơm thì thiếu, bành mì lại thừa,…
Ngày 13/2, tàu rời Hà châu (Hội An). Đến ngày 16/2, tau qua đảo Sumatra (Indonesia), một cù lao có khoảng 6 triệu người dân sinh sống, một phần là thuộc địa của Hollande (Hà Lan).
Ngày 23/2/1880, tàu tới Địa Trung Hải và ghé thăm một số thành phố ở đây. Đầu tiên là Cey-Lan, một cù lao có cửa biển sâu nên có nhiều tàu thuyền ra vào tấp nập. Lại là nơi đất đai trù phú, giàu ngọc trai, phong phú hoa quả, hương liệu và lương thực nhất là quế và gạo. Dân số ở đây khoảng hai triệu người chủ yếu theo đạo Phật.
9 ngày sau, tàu đến Aden một thnh phố gần Biển Đỏ. Ngày 6/3/1880 tàu cập kênh đào Suez, là con kênh lớn xây dựng kiên cố, được xây dựng trong 10 năm với kinh phí 500 triệu USD và 36.000 nhân công xây dựng. Ngày 7/3/1880 tàu cập cảng Port Said, là một nơi sầm uất, có thể được xem là chốn ăn chơi của những thương nhân và những người giàu có. Ngày 8/3/1880 tàu rời khỏi cảng Port Said tiếp tục cuộc hành trình.
Ngày 12/3, tàu đến Ytalia, qua Messine và ngày 13/3 đến Sicile (Ytalia), một đảo nhỏ, diện tích “gần ba trăm vẹo thước vuông, bảy vẹo tám vuông thước dài”, dân số có khoảng ba triệu, nhưng ở đây lại giàu khoáng sản nhất là vàng, bạc, đồng, hổ phách, sắt, chì… san hô, mã não….
Ngày 14/3/1880 tàu vào địa phận nước Pháp, qua đảo Corse, cập vịnh Toulon (ngày 15/3).
Vịnh Toulon – nơi có địa hình hiểm trở, trên núi cao, dưới biển sâu, nhưng là cảng biển tốt nhiều tàu bè lớn qua lại, kinh tế rất phát triển, nhà cửa, đường phố quy hoạch quy củ và khang trang, cảnh quan cũng đẹp, có nhiều công trình xây dựng lớn như dinh tổng đốc, nhà tràng, tòa án, các nhà thờ, nhà quán, nhà thương, khám đường… Tuy nhiên ở đây có sự phân hóa giàu nghèo khá lớn.
Ngày 17/3/1880, Ông đến Marseille và có truyến thăm quan nơi này. Sau một ngày đi dạo những ghi chép của ông cho thấy: nhà cửa ở đây khang trang, cao lớn với kiến trúc đẹp, lạ mắt; đường phố sạch sẻ, ngăn nắp, văn minh. Chính quyền quản lý dân tình rất chặt chẻ cả về nhân khẩu, hôn nhân, sổ tử, những người kinh doanh buôn bán, các thứ thuế cũng rành mạch rõ ràng. Người dân chủ yếu là theo đạo Thiên Chúa Giáo và lấy hoạt động thương nghiệp làm gốc. Ở đây còn nổi tiếng với những công trình kiến trúc đồ sộ như: Bảo tàng Saint Joseph, nhà thờ Le Cavaire, đền Du Mont, nhà thờ Mont Carmel, lầu chuông De La Garde, tòa nhà La Bourse, trường học Saint Marie, đền Longchamp.
Tiếp đó, sau 36 giờ lênh đênh trên tàu, ông đến Alger. Một Alger cũng hoành tráng trước mắt Trương Minh Ký. Cũng đồ sộ, hùng vĩ như Marseille, với nhiều công trình kiến trúc nghệ thuật đặc sắc như: nhà thờ Saint Augustin, chùa Arabe…. Một đô thị được quy hoạch rất khoa học, thông thoáng và quy củ. Dọc con phố là những trung tâm buôn bán, nhà hàng, nhà nghỉ, phòng tắm nóng lạnh, phòng xông hơi mọc lên san sát.
Ngày 9/4/1880, Ông lên đường đến Paris. Nửa đêm 9/4, đến thành phố Lyon, một thành phố hoa lệ, rực rỡ bởi ánh đèn. 10 giờ sáng ngày 10/4/1880, Ông tới Paris. Nơi được mệnh danh là thủ đô văn minh hoa lệ, đã được Trương Minh Ký ghi lại tỷ mỉ. Dưới sông có tàu đò nhỏ, trên có xe, có tàu lửa chạy quanh. Cả nội thành chia làm 20 quận, ngoài thành có 16 đồn và có 27 cái cầu lớn hiện đại, xây bằng sắt thép, bê tông kiên cố. Đường phố văn minh sạch đẹp đến không ngờ “ngó xuống nước nước trong tựa lọc, xem trên đàng đàng sạch như chùi”. Và nổi tiếng với những công trình kiến trúc, văn hóa, nghệ thuật tráng lệ, độc đáo như: Thành Bastille, tượng Lius XIII, XIV cưỡi ngựa đồng, tượng Molière, bia Saint Denis, bia Saint Martin, tượng tiên nữ L’Arbre, bồn Gaillon, bồn Grenelle, bồn Innocents, bồn Léda, vườn Tuileriès…. Đấy là một cái nhìn, một sự mô tả về Paris hoa lệ của Trương Minh Ký ở ngay đời thực, thật khó khi được tận mắt chiêm ngưỡng nó mà không thốt lên những lời chầm chồ khen ngợi. Trương Minh Ký không nói nhiều đến cuộc sống của người dân Paris nhưng thơ Ông lại hiện lên cả một hiện thực cuộc sống mà ở đó mọi người đều cần mẫn lao động, và luôn ước mong một cuộc sống an bình, văn minh.
Có lẽ Trương Minh Ký không vô tình viết “ Như Tây Nhật Trình” theo lối viết chỉ để mà viết. An sâu trong đó là đại diện cho ý thức của một lớp người “Annam” những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, muốn đi xem thế giới, đến những nơi văn minh để học hỏi về xây dựng quê hương văn minh hơn. Do đó, những vần thơ của Ông, cũng như của nhiều tác gia cùng thời là sự thể hiện tư tưởng canh tân đất nước, đó là những tư liệu quý cho việc nghiên cứu giai đoạn lịch sử này của dân tộc.
[1] Một tàu chiến sang trọng của Pháp, gồm 3-4 tầng, dài hơn 40m, có phòng ăn, phòng ngũ, phòng tắm, phòng giải trí,… khơng chỉ phục vụ cho binh lính m cho cả tầng lớp “quan lại” thực dn.
Tin cùng chuyên mục:
Khó khăn và giải pháp khắc phục trong triển khai nhiệm vụ nộp lưu tài liệu lưu trữ số
Thực trạng triển khai công tác lưu trữ điện tử của Ủy ban Dân tộc
Văn học Sài Gòn 1954-1975 những chuyện bên lề
Sài Gòn 1698-1998 Kiến trúc quy hoạch