VỀ CHÍNH SÁCH GIÁO DỤC CỦA PHÁP Ở VIỆT NAM THỜI CẬN ĐẠI QUA TÀI LIỆU LƯU TRỮ

ThS. Cù Thị Dung*

Triều đình nhà Nguyễn ký Hòa ước Nhâm Tuất 1862 nhượng 3 tỉnh miền Đông cho Pháp, trên đà thắng, năm 1867, Pháp chiếm luôn 3 tỉnh miền Tây, xem như công cuộc xâm lược Nam Kỳ của thực dân Pháp hoàn tất. Kể từ đây, Pháp bắt đầu chế độ cai trị Việt Nam. Trong suốt 80 năm đô hộ Việt Nam, thực dân Pháp đã ban hành nhiều chính sách trên tất cả các lĩnh vực từ đời sống đến kinh tế ở Việt Nam với mục đích “thuần hoá” nhân dân An Nam, để không còn một phần tử nào chống đối “mẫu quốc”. Riêng đối với giáo dục, Pháp đặc biệt quan tâm với mong muốn xây dựng ở đây một nền giáo dục thuộc địa hoàn toàn phụ thuộc vào Pháp, nhưng được nguỵ biện dưới chiêu bài “khai hoá dân trí”, “mở mang tri thức” cho dân An Nam lạc hậu.

Thời gian đầu xâm lược Việt Nam, do chưa chiếm được Bắc kỳ và Trung kỳ nên chính sách giáo dục của người Pháp chủ yếu thực thi tập trung ở Nam kỳ và nhằm để giải quyết các yêu cầu trước mắt của cuộc xâm lược. Ngày 21/9/1861, sau khi chiếm được Gia Định, Pháp ban hành nghị định thành lập trường Thông ngôn lấy tên là trường d’Adran hay còn gọi là Bá Đa Lộc (tuy nhiên theo báo cáo ngày 20/11/1886 của Giám đốc Nha Giáo dục Nam kỳ, thì trường d’Adran đã được các nhà truyền giáo nước ngoài thành lập trước khi người Pháp đến Việt Nam(1)). Để thu hút học sinh, ngày 01/12/1961, Đô đốc Bonard ký quyết định tăng mức học bổng cho trường d’Adran. Nhưng những cuộc kháng chiến quyết liệt, cùng với tư tưởng bài Pháp trong dân chúng Nam kỳ khiến chủ trương của Bonard bất thành. Trường d’Adran không thu hút được học sinh tham dự. Vì vậy, ngày 08/5/1862, Đô đốc Bonard ban hành quyết định thành lập trường Thông ngôn bản địa với mục đích cung cấp nhân viên thông ngôn cho quân đội và hải quân Pháp.

Đến năm 1863, chính sách giáo dục của Pháp có sự thay đổi, mục tiêu đưa vào sử dụng chữ Pháp và chữ latinh nhằm xóa bỏ chữ Nho cùng ảnh hưởng của tầng lớp sĩ phu yêu nước trong dân chúng miền Nam, Đô đốc Bonard ban hành quyết định ngày 31/3/1863 tái lập lại một số trường đào tạo đốc học, giáo thụ, huấn đạo. Đồng thời, xây dựng chương trình đào tạo một số học vị mới như tú tài, cử nhân… Trong đó, học sinh sẽ được học chữ latinh và chữ quốc ngữ trong trường. Vào thời điểm này, phong trào kháng Pháp nổ ra mạnh mẽ, chính quyền thực dân chưa dùng chữ Pháp thay thế chữ quốc ngữ trong chương trình đào tạo, nhưng quy định bắt buộc các thí sinh phải thi bằng tiếng Pháp trong các kỳ thi được tổ chức tại trường. Tuy nhiên, bằng cách này, chính quyền Pháp vẫn chưa thể truyền bá rộng rãi được tiếng Pháp cho người Việt.

          Năm 1864, nhằm tăng cường việc dạy tiếng Pháp trong trường học, ngày 16/7/1864, chính quyền Pháp ban hành nghị định thành lập một số trường tiểu học ở các tỉnh để dạy chữ quốc ngữ, dạy toán. Học sinh sẽ học tiếng Pháp 2h/ngày, được trợ cấp tiền 1 quan/ngày, đồng thời sẽ thưởng 1 quan cho học sinh nào biết đọc, biết viết; 0,5 quan cho học sinh mới biết đọc. Cho đến năm 1866 người Pháp mở được 47 trường với tổng số học sinh là 1.238 người.

Sau một thời gian bình định được Nam kỳ, một số gia đình người Pháp và người Âu bắt đầu đến sinh sống và làm việc tại đây. Nhu cầu giáo dục cho con em người Âu đang ngày một cấp thiết. Chính vì vậy, vào ngày 10/2/1868, Đô Đốc Lagrandière đã ra quyết định thành lập trường ngoại trú dành cho người Âu, dưới sự quản lý của Giám đốc Nha Nội chính.

Năm 1871, chính sách giáo dục của Pháp có sự thay đổi căn bản. Ngày 10/7/1871, Đô đốc Dupré đã đưa ra 3 quyết định quan trọng. Đầu tiên là quyết định thành lập trường sư phạm thuộc địa dành cho người bản xứ ở Sài Gòn. Trường sẽ do 1 Hiệu trưởng và 3 giáo viên có bằng cấp đảm nhận. Học sinh được nhận vào học có số tuổi tối thiểu là 16 và tối đa là 25 tuổi, với hình thức học nội trú. Kinh phí hoạt động của trường do nhà nước thuộc địa chi trả; quyết định thứ hai là thống đốc sẽ bổ nhiệm một Hội đồng có nhiệm vụ đưa ra kế hoạch giảng dạy và soạn giáo trình cho giáo viên; và quyết định cuối cùng là quy định cụ thể về đội ngũ giáo viên. Theo đó, mỗi giáo viên được chia ra phụ trách 3 lớp, và được nhận trợ cấp ngoài lương 1quan/ngày/lớp. Tuy nhiên, để có được công việc này, giáo viên phải trải qua 1 kỳ thi rất nghiêm ngặt. Giáo viên có bằng sơ học sẽ phụ trách 2 lớp thấp, giáo viên có bằng cao đẳng tiểu học sẽ phụ trách lớp nhất.

Nhằm thống nhất quản lý giáo dục ngày 13/01/1873, Đô đố Dupré đã ra quyết định bổ nhiệm 1 Hội đồng đặc biệt có nhiệm vụ nghiên cứu và trình cho Đô đốc dự thảo tổ chức Nha giáo dục Nam kỳ, tổ chức các trường, chương trình học, sách giáo khoa và cách thức triển khai chương trình giáo dục trong tất cả các trường.

Mặc dù, chính quyền thuộc địa ban hành nhiều chính sách và sử dụng nhiều biện pháp để hạn chế nền giáo dục dân tộc của Việt Nam, hướng giáo dục Việt Nam vào quỹ đạo giáo dục của thực dân Pháp. Nhưng, ở nông thôn, các thầy đồ vẫn tiếp tục mở trường dạy con em và thu hút được nhiều học sinh. Trước tình hình đó, Đô đốc Dupré đã ra quyết định ngày 17/11/1874 (2) về việc ban hành quy chế và cải tổ lại hoàn toàn hệ thống giáo dục. Đây là bản quy chế đầu tiên. Với bản quy chế này chính quyền Pháp cấm các trường tư mở cửa nếu không được phép của chính quyền. Đồng thời qua quyết định này, giáo dục ở Nam kỳ hoàn toàn miễn phí và tự do. Các trường làng dạy chữ Hán sẽ bị hủy bỏ và thay vào đó là 1 trường duy nhất nằm ở tỉnh lỵ của mỗi tỉnh và dạy toàn bằng chữ la tinh. Bản quy chế năm 1874 chia nền giáo dục ra làm hai bậc: tiểu học và trung học. Bậc tiểu học bãi bỏ các trường dạy quốc ngữ ở làng, mà tập trung về 6 tỉnh (mỗi tỉnh có một trường): Sài Gòn, Chợ Lớn, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Bến Tre, Sóc Trăng. Nhân sự của các trường này bao gồm 1 Hiệu trưởng người Pháp, biết tiếng Việt và các giáo viên thành thạo tiếng  Pháp.  Sau 3 năm học, học sinh sẽ trải qua kỳ thi cuối cấp. Những học sinh có học lực tốt có thể tiếp tục việc học tại trường Trung học bản xứ (Collège indigène) (thay cho trường sư phạm bản xứ). Trường Trung học bản xứ (sau một năm thành lập, được đổi tên thành trường Chasseloup – Laubat theo Nghị định ngày 6/1/1876) sẽ do 1 Hiệu trường và các giáo viên người Âu phụ trách. Trường tiếp nhận 120 học sinh nội trú và có học bổng. Chương trình học ở trường kéo dài 3 năm, sau mỗi năm sẽ tổ chức 1 kỳ thi, học sinh nào không đạt sẽ phải nghỉ học. Sau 3 năm học, học sinh sẽ trải qua kỳ thi lấy bằng Cao đẳng, với bằng này, người ta có thể làm việc trong các cơ quan hành chánh hoặc các trường học. Bản quy chế cũng quy định chế độ giáo dục hoàn toàn miễn phí và tự do ở Nam kỳ.

Ngày 17/3/1879(3), Đô đốc Thống đốc Laffon đã ra quyết định về việc tổ chức lại hệ thống trường lớp và Nha giáo dục. Với quyết định này, giáo dục ở Nam kỳ được chia thành 3 cấp: bậc sơ cấp tiểu học (cấp I), bậc tiểu học (cấp II) và cao đẳng tiểu học (cấp III). Các trường cấp I còn được gọi là trường hàng tổng, trường cấp II còn gọi là trường hàng quận, trường cấp III còn gọi là trường trung học.

Thời gian học ở cấp I kéo dài 3 năm, học sinh sẽ được học tiếng Pháp, Quốc ngữ và số học. Vào cuối cấp, học sinh sẽ trải qua 1 kỳ thi, nếu đậu, sẽ được nhận vào học cấp II.

Thời gian học ở cấp II cũng kéo dài 3 năm, học sinh sẽ học các môn như tiếng Pháp, quốc ngữ, tiếng Hán, toán học, lịch sử và địa lý. Vào cuối cấp, học sinh sẽ trải qua một kỳ thi để lấy bằng sơ cấp.

Riêng cấp III, thời gian học kéo dài 4 năm, học sinh sẽ học các môn học giống như các môn học ở cấp II những được nâng cao hơn và bằng thi cuối cấp là bằng Cao đẳng.

Về mặt tổ chức, các trường sẽ đặt dưới sự quản lý của Giám đốc Nha Nội chính và Chủ tỉnh theo như Nghị định năm 1874 quy định. Có thể nói, tổ chức trường lớp do Đô đốc Thống đốc Laffont ban hành chỉ hiện diện trên lý thuyết, còn trên thực tế thì nhà cầm quyền Pháp đã hoàn toàn cấm dạy tiếng Hán trong trường và ngày càng gia tăng số lượng giáo viên đến từ Pháp để dạy tiếng Pháp ở Nam kỳ.

Kể từ năm 1880, hoạt động giáo dục ở Nam kỳ đã có một bước tiến bộ đáng kể. Sở giáo dục thời kỳ này bao gồm các thành viên sau:

  • 1 Giám đốc sở
  • 3 Hiệu trưởng trường trung học
  • 1 Thanh tra
  • 1 Phó Hiệu trưởng trường trung học
  • 57 Giáo viên người Âu
  • 102 Giáo viên người Việt có bằng cấp (do ngân sách nhà nước thuộc địa trả lương)
  • 400 giáo viên trường làng chưa có bằng cấp (do ngân sách địa phương trả lương)

Số lượng giáo viên này sẽ đảm trách công việc giảng dạy tại các trường:

  • 3 trường trung học (Đệ II cấp)
  • 8 trường tỉnh (do giáo viên Pháp phụ trách)
  • 6 trường tỉnh (do giáo viên Việt phụ trách)
  • 2 trường làng dành cho con trai
  • 1 trường làng dành cho con gái
  • 300 trường tổng

Tổng số học sinh trong các trường là 19.000. Nếu tính cả số học sinh đang theo học tại các trường thiên chúa giáo, thì con số có thể lên đến 30.000 học sinh theo học chữ quốc ngữ. Trong tổng số này, có khoảng 2.300 học sinh nói và viết thông thạo chữ Pháp và 5.000 học sinh nghe hiểu được chữ Pháp.

     Bảng thống kê trên cho thấy số lượng học sinh theo học chữ Pháp đã tăng lên đáng kể từ năm 1869-1880. Hệ thống trường làng cũng phát triển rất nhanh mặc dù kết quả cũng chưa được như người Pháp mong đợi.

Hệ thống giáo dục ở Nam kỳ có lẽ sẽ có một sự tiến bộ lớn hơn nữa nếu như ngân sách của nhà nước đáp ứng được các chi phí của hoạt động giáo dục. Chính quyền thuộc địa đã nhận thấy rằng kinh phí dành cho giáo dục ở Nam kỳ là quá lớn. Do đó, kể từ năm 1886, chính quyền đã buộc tất cả các trường phải tổ chức thi tuyển sinh đầu vào. Kỳ thi tuyển sinh này cũng đòi hỏi một trình độ cao giống như thi lấy bằng hết cấp.

Đến đầu thế kỷ 20, vào năm 1898, Toàn quyền Doumer đã cho thành lập trường Viễn Đông Bác cổ, với mục đích là chuẩn bị cho cuộc cải cách giáo dục trong thời gian tới nhằm mục đích làm thay đổi suy nghĩ của người Việt đối với giáo dục Pháp.

Kế nhiệm Doumer, toàn quyền Paul Beau (1902- 1906) đã tiến hành một chính sách giáo dục mới. Nền giáo dục của Việt Nam trong thời gian này đã có một bước tiến bộ đáng kể. Chính sách giáo dục của Paul Beau tập trung vào 6 nhiệm vụ sau(4):  1)  tăng lương cho giáo viên, 2) tạo điều kiện cho các giáo viên trường tư có cơ hội được giảng dạy trong các trường công lập, 3) mở các trường sư phạm và mở 1 khoa sư phạm trong trường Đại học Hà Nội, 4) xuất bản các sách giáo khoa viết bằng tiếng Pháp, chữ quốc ngữ và chứ Hán, 5) thành lập Ủy ban Hoàn thiện nền Giáo dục bản địa, 6) tổ chức tốt hơn các kỳ thi. Chính sách giáo dục này trước tiên được áp dụng ở Bắc kỳ và Trung kỳ, rồi sau mới phổ biến ở Nam kỳ kể từ năm 1909 trở đi. Cũng trong năm này, Paul Beau đã mở trường Đại học đầu tiên ở Hà nội, đó là trường Đại học Đông Dương, có nhiệm vụ giúp giai cấp thượng lưu bản xứ làm quen với tư tưởng Pháp.

Có thể nói, chính sách giáo dục do Paul Beau khởi xướng đã tác động vào những đối tượng chính sau đây:

  1. Hệ thống trường Việt truyền thống (học chữ Hán của giáo dục Nho giáo)
  2. Hệ thống trường Pháp – Việt
  3. Hệ thống các trường chuyên nghiệp
  4. Hệ thống trường Việt

Hệ thống trường Việt bao gồm 3 cấp. Cấp I  là trường Ấu học, cấp II là trường Tiểu học và cấp III là Trung học.

  1. Bậc Ầu học (cấp I)

Các trường thuộc bậc Ấu học sẽ do các làng xã quản lý. Tiêu chuẩn để được mở trường Ấu học trong làng là phải có 60 trẻ nam độ tuổi từ 6 đến 12 tham gia học, với 1 giáo viên phụ trách. Ngân sách hoạt động của các trường này sẽ do làng xã chi trả. Trường Ấu học thời kỳ này chỉ dành cho học sinh nam, học sinh nữ không được nhận vào học trong trường.

Các  trường Ấu học cũng thường xuyên được kiểm tra, ngoài các buổi thanh tra của các Giáo thụ và huấn đạo, còn có đốc học, tri phủ, tri huyện và các quan chức trong tỉnh hay nhân viên sở giáo dục.

Mỗi tỉnh sẽ thành lập 1 trường bậc Ấu học. Giáo dục bậc Ấu học bao gồm 2 phần: tiếng Hán và tiếng Việt. Tùy theo nhu cầu, học sinh có thể chọn học tiếng Việt hoặc tiếng Hán.

Phần tiếng Hán, chương trình học chủ yếu tập trung dạy chữ Hán, các bài học về đạo đức, lịch sử, địa dư Việt Nam bằng chữ Hán. Phần tiếng Việt chủ yếu tập trung dạy chữ latinh và các kiến thức cần thiết về Đông Dương, về hành chánh, phong tục tập quán, về toán học, về các hiện tượng tự nhiên…Sau khi học xong, học sinh phải trải qua một kỳ thi gọi là “hạch tuyển” và được cấp bằng “tuyển sinh”.

Ngay từ khi ban hành Nghị định cải cách giáo dục này, giáo viên nào không biết chữ quốc ngữ sẽ không được nhận vào dạy trong trường. Chính quyền sẽ tổ chức các lớp dạy chữ quốc ngữ cho giáo viên trường làng tại trung tâm mỗi tỉnh.

  1. Bậc tiểu học (cấp II).

Các trường tiểu học được mở tại huyện và phủ của mỗi tỉnh và hoạt động bằng ngân sách của tỉnh .

Chương trình học bậc tiểu học bắt buộc phải có 2 phần: tiếng Hán và tiếng Việt. Riêng tiếng Pháp sẽ khuyến khích học sinh đăng ký học, không bắt buộc. Chương trình học tiếng Hán bao gồm: đạo đức, văn học cổ điển, lịch sử Trung Hoa và lịch sử Việt Nam. Chương trình học tiếng Việt bao gồm: ngoài học tiếng Việt ra, học sinh còn học khái quát lịch sử, địa lý và khoa học.

Sau khi học xong, học sinh phải trải qua một kỳ thi gọi là “khảo khóa” và được cấp bằng “khóa sinh”.

  1. Bậc Trung học

Các trường bậc trung học được mở tại các tỉnh lỵ

Chương trình học ở bậc trung học bao gồm cả tiếng Hán, tiếng Việt và tiếng Pháp. Tiếng Hán sẽ do các Đốc học phụ trách dạy. Tiếng Việt và tiếng Pháp sẽ do các giáo viên trường Pháp – Việt tại địa phương phụ trách.

          Chương trình học tiếng Hán bao gồm: đạo đức, văn học cổ điển, lịch sử và hành chánh Việt Nam

          Chương trình học tiếng Việt: đi sâu vào lịch sử, địa  lý và khoa học tự nhiên

          Chương trình học tiếng Pháp: Học những bài cơ bản về tiếng Pháp.

          Sau khi học xong, học sinh sẽ trải qua một kỳ thi gọi là “sát hạch”, và người đậu sẽ được cấp bằng “thí sinh”, được tham gia vào kỳ thi hương.

  1. Giáo dục Pháp – Việt

Như chúng ta đã biết, hệ thống trường Pháp – Việt được thành lập vào năm 1879 ở Nam kỳ (ở Bắc kỳ vào năm 1904 và ở Trung kỳ năm 1906) – Chương trình học gồm: tiếng Pháp, tiếng Việt, Lịch sử, Địa lý, Khoa học cơ bản. Hệ thống trường này bao gồm các bậc học: Trường trung học, trường tiểu học và trường dự bị.

Và theo Nghị định cải cách giáo dục năm 1906, các trường Pháp – Việt ở Trung kỳ và Bắc kỳ đã có một số thay đổi, cụ thể như: Những học sinh có bằng “tuyển sinh” (bậc Ấu học) sẽ được nhận vào học trường tiểu học Pháp – Việt. Môn thi tiếng Hán sẽ được bổ sung vào cho kỳ thi lấy bằng trung học Pháp – Việt. Trường Quốc học Huế sẽ không dạy bậc tiểu học, mà chuyển thành trường trung học. Một kỳ thi lấy bằng tiểu học Pháp – Việt sẽ được mở ở Trung kỳ và cấp bằng Trung học sau khi tốt nghiệp trường Quốc học. Chương trình học giống như chương trình đã có ở Bắc kỳ.

  1. Giáo dục chuyên nghiệp

Giáo dục nghề hiện đang được dạy cho người bản địa trong các trường dự bị, tiểu học và trung học chỉ mang tính giáo dục chung chung,  mặc dù chương trình học rất cụ thể và được định hướng theo nhu cầu kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, nó không phải là trường chuyên đào tạo kỹ thuật và dạy nghề. Ngay từ năm 1895, chính quyền thuộc địa đã nỗ lực thành lập các trường dạy nghề ở Đông Dương. Tuy nhiên, họ đã gặp phải 2 vấn đề: sự không đồng tình của người bản địa và điều kiện kinh tế của đất nước. Hệ thống trường nghề lúc này bao gồm 4 loại:

  • Giáo dục kỹ thuật công nghiệp Pháp: đào tạo nhân công lành nghề phục vụ cho thuộc địa và cho ngành công nghiệp (thợ máy, thợ nguội, thợ rèn, thợ điện, tài xế…), ngoài ra cũng có một khoa đào tạo tài công, thợ máy cho xà lan, tàu thủy (trường Thợ máy Châu Á Sài Gòn).
  • Đào tạo các ngành nghề công nghiệp mới: gốm sứ, dệt may, thuộc da… Học sinh trường này phải trải qua từ 2-3 năm học trở lên và sẽ được đào tạo trở thành những công nhân lành nghề trong các xí nghiệp của người Âu.
  • Các xí nghiệp gia đình: dạy nghề (không dạy văn hóa) cho công nhân đến học để nâng cao tay nghề.
  • Nghề thủ công truyền thống bản địa: mục đích khôi phục lại nghệ thuật truyền thống của địa phương. Chủ yếu là các ngành nghề sau: trang trí đồ sứ, điêu khắc gỗ, làm đồ gốm. Ở Nam kỳ, có nhiều xưởng thủ công mỹ nghệ nổi tiếng do các nghệ nhân quản lý ở Thủ Dầu Một và Biên Hòa…

Để thuận tiện trong việc đào tào và đỡ tốn kém chi phí, chính quyền thực dân cũng đã nghiên cứu chương trình cụ thể để áp dụng cho từng đối tượng học sinh: Đối với học sinh học ngành công nghiệp châu âu thì cần cho học một số lý thuyết, vẽ kỹ thuật và hình học. Đối với học sinh học nghề truyền thống của người bản xứ thì tập trung rèn luyện từng nghề và nâng cao năng khiếu nghề nghiệp và phải có sức khỏe tốt. Việc tuyển chọn học sinh này sẽ mở rộng hơn, học thực hành là chính, do đó chỉ cần dạy bằng tiếng mẹ đẻ.

     Bên cạnh hệ thống trường nghề đào tạo thợ chuyên môn bản địa, người Pháp lúc ngày cũng chú trọng đến việc mở trường đón nhận học sinh nữ vào học. Nguồn ngân sách duy trì hoạt động của trường này chủ yếu từ việc quyên góp trong cộng đồng dân sống ở thuộc địa và chính quốc. Trường dành riêng cho các nữ sinh bao gồm 3 dạng:

– Trường sơ học: học chung với nam

– Trường tiểu học: tổ chức tại các tỉnh lỵ do giáo viên người Pháp phụ trách.

– Trường cao đẳng tiểu học: tổ chức tại các trung tâm thành phố nhằm đào tạo nữ giáo viên

Chương trình học trong các trường nữ chủ yếu là thực hành gồm có một chương trình chung dạy bằng tiếng mẹ đẻ (tập đọc, tập viết, làm toán, vệ sinh) và một chương trình thực hành gồm các môn gia chánh (may vá, giặt giũ, nấu ăn…) và những nghề thủ công dành riêng cho nữ (thêu, đan, dệt, làm bánh, làm vườn…).

Kể từ thời Toàn quyền Klobukowsky (nhiệm kỳ 1908-1910), chế độ quản lý của người Pháp  chú trọng đến chính sách giáo dục theo chiều rộng, tức là hạn chế giáo dục Cao đẳng và Đại học, và chỉ chú trọng phát triển giáo dục tiểu học và đào tạo kỹ thuật. Dưới thời Albert Sarraut (1911 – 1919) nền học vấn ở Việt Nam được tổ chức lại như sau: Sarraut đã cho bãi bỏ kỳ thi hương ở Bắc kỳ vào năm 1915 và ở Trung kỳ vào năm 1918, thay vào đó bằng một sự phổ biến chương trình học bằng tiếng Pháp. Trường trung học ở Hà Nội được mở cho học sinh người Việt, và Đại học Hà Nội hoạt động lại kể từ năm 1917.

Chính sách giáo dục của Albert Sarraut đánh dấu bằng sự ra đời của Bộ “Học chính tổng quy”. Bộ Học chính tổng quy ra đời vào ngày 21/12/1917 được ban hành và áp dụng cho cả nước. Bộ Học chính tổng quy bao gồm 7 chương với 558 điều, hệ thống trường lớp được phân thành 2 loại: giáo dục phổ thông và giáo dục nghề [5].

  1. Giáo dục phổ thông: Hệ thống trường Pháp và hệ thống trường Pháp Việt.
  2. Hệ thống trường Pháp

+ Cấp I: trường tiểu học Pháp: Các trường tiểu học Pháp chỉ nhận học sinh người Âu, có độ tuổi từ 6 đến 13 tuổi. Giáo viên giảng dạy là người Pháp.

+ Cấp II: gồm Trung học Đệ I cấp (Cao đẳng tiểu học) và trung học đệ II cấp.

  1. Trung học đệ I cấp (Cao đẳng tiểu học)

Chương trình học của trường Cao đẳng tiểu học Pháp giống như chương trình học ở Pháp. Sau khi học xong học sinh cũng trải qua kỳ thi lấy bằng Cao đẳng tiểu học hoặc bằng giáo dục tiểu học. Trường Cao đẳng tiểu học nhận 2 loại học sinh: loại trả tiền và loại có học bổng. Học bổng chỉ được cấp cho học sinh người Pháp (người Châu Âu và người mang quốc tịch Pháp). Học sinh trả tiền là học sinh người bản địa. Tuy nhiên, trường Pháp chỉ nhận không quá 30 học sinh bản địa/lớp. Một năm học của trường Cao đẳng tiểu học kéo dài 9 tháng. Độ tuổi nhận vào học trường Cao đẳng tiểu học là:

Lớp đệ lục: 13 tuổi

Lớp đệ ngũ: 14 tuổi

Lớp đệ tứ: 15 tuổi

Lớp đệ tam: 17 tuổi

  1. Trung học đệ II cấp: bao gồm 2 trường: trường Trung học Hà Nội và trường Chasseloup Laubat.

Trường này nhận học sinh Pháp và Việt gồm 2 loại: loại trả tiền và học bổng. Độ tuổi được nhập học trường trung học được tính như sau:

          Lớp đệ nhị: 18 tuổi

          Lớp đệ nhất: 19 tuổi

          Lớp toán và triết học: 20 tuổi

Trường trung học bao gồm 2 ban: Ban A và Ban B. Chương trình học và thi cử của trường trung học giống như ở bên Pháp. Các môn học được giảng dạy trong trường phù hợp với chương trình thi hết cấp. Tiếng Hán trong trường được xem là môn ngoại ngữ. Địa lý Đông Dương và Châu Á được dạy kỹ hơn so với các trường ở Pháp.

  1. Hệ thống trường Pháp – Việt

+ Cấp I: trường tiểu học: trường nam và trường nữ

Trường tiểu học nam: được thành lập trong các làng. Toàn bộ chi phí xây dựng, duy trì hoạt động và trả lương giáo viên đều do ngân sách của làng đảm nhận.

Trường tiểu học nữ: tổ chức trường tiểu học nữ giống như trường tiểu học nam. Trường tiểu học nữ được thành lập tại tỉnh lỵ. Có những tỉnh không có đủ phương tiện thành lập trường nữ, thì chính quyền có thể thành lập trường tiểu học dành cho cả nam lẫn nữ. Tuy nhiên các lớp học sẽ phân chia ra thành lớp dành cho nam và lớp dành cho nữ.

* Tổ chức của trường tiểu học Pháp – Việt:

– Bậc tiểu học (cấp I) bao gồm 2 loại:

. Trường tiểu học kiêm bị: gồm 5 lớp: đồng ấu (7 tuổi), dự bị (8 tuổi), sơ đẳng (9 tuổi), lớp nhì (10 tuổi), lớp nhất (11 tuổi). Sau khi học xong, học sinh sẽ trải qua kỳ thi để lấy bằng tiểu học và tiếp tục vào học trường trung học.

. Trường sơ cấp: gồm 3 lớp: đồng ấu, dự bị, sơ đẳng. Sau khi học xong, học sinh trường này trải qua kỳ thi lấy bằng sơ cấp và tiếp tục học lớp nhì và lớp nhất tại trường tiểu học kiêm bị.

 Sau khi học xong tiểu học (hết lớp nhất), học sinh phải trải qua một kỳ thi lấy bằng tiểu học. Nếu không đậu kỳ thi này, học sinh có thể đăng ký học một năm dự bị để chuẩn bị cho kỳ thi sau.

Sau khi học xong lớp nhì, học sinh sẽ trải qua một kỳ thi lên lớp nhất, nếu không đạt, học sinh sẽ tiếp tục học thêm một năm lớp nhì.

+ Cấp II: trường trung học Pháp – Việt

Ngân sách địa phương sẽ dùng cho chi trả cho hoạt động của trường, bao gồm cả trả lương cho nhân viên.

Trường trung học Pháp – Việt sẽ nhận 2 loại học sinh: trả tiền và học bổng. Hệ thống trường trung học Pháp – Việt sẽ có các lớp đào tạo sư phạm  (trong trường hợp chưa mở được trường sư phạm). Trường sư phạm được thành lập nhằm mục đích đào tạo giáo viên bản địa cho bậc tiểu học. Trường sư phạm miễn học phí hoàn toàn cho học sinh theo học. Trường sư phạm bao gồm 2 cấp:

Đệ I cấp: gồm 4 lớp (giống như trung học Đệ I cấp của hệ thống giáo dục Pháp). Độ tuổi được nhận vào lớp Đệ I cấp trường sư phạm là dưới 18 tuổi, có bằng tiểu học và có học bổng

Đệ II cấp:  gồm 2 lớp. Những người theo học lớp này được gọi là giáo sinh. Độ tuổi được nhận vào Đệ II cấp trường sư phạm là dưới 25 tuổi, có bằng thành chung. Ngoài ra, các giáo sinh còn được nhận trợ cấp hàng tháng là 8 quan đối với năm đầu, và 10 quan đối với năm thứ hai.

+ Cấp III: Hệ Cao đẳng – Đại học

Về nguyên tắc tổ chức, các trường Cao đẳng sẽ do Hiệu trưởng trực tiếp quản lý. Hiệu trưởng phải là người có bằng Đại học ở Pháp và đã có 10 năm hoạt động trong lãnh vực giáo dục. Phụ trách việc giảng dạy trong trường phải là giáo sư tốt nghiệp ở Pháp, ngoại trừ một số môn như tiếng Hán thì sẽ sử dụng giáo sư bản địa. Để được nhận vào trường Cao đẳng (trừ thí sinh được học bổng), thí sinh tự do phải hội đủ những điều kiện sau:

– Phải là người Pháp, được Pháp bảo trợ hoặc mang quốc tịch Pháp.

– Có độ tuổi từ 18 đến 25. Riêng trường Y, trường thú y, trường thuốc nhận học sinh có độ tuổi tối đa là 30 tuổi.

– Phải có 1 trong những bằng sau: bằng tú tài, bằng thành chung, bằng Cao đẳng tiểu học, bằng cao đẳng giáo dục tiểu học.

          Các học sinh có học bổng được học nội trú miễn phí, được miễn thuế thân và nghĩa vụ quân sự, đồng thời được trả lộ phí về thăm gia đình vào dịp hè. Thí sinh tự do không được học nội trú và phải trả học phí.

  1. Giáo dục nghề: bao gồm 2 cấp. Đệ I cấp là các trường thực nghiệm, nữ công gia chánh, canh nông, kỹ nghệ và Mỹ thuật công nghiệp (Gia Định, Biên Hòa, Thủ Dầu Một…). Đệ II cấp là những trường thực nghiệm kiêm bị, nghĩa là dạy toàn khóa chứ không chỉ dạy sơ lược như ở đệ I cấp.

+ Đệ I cấp: Trường nghề đệ I cấp được thành lập theo quyết định của Thống đốc Nam kỳ hoặc các khâm sứ theo đề nghị của Thanh tra giáo dục nghề. Trường chịu sự quản lý trực tiếp của chủ tỉnh và do ngân sách nhà nước hoặc tỉnh chi trả. Việc giảng dạy trong trường do các giáo sư, giáo viên người Pháp lẫn người Việt phụ trách. Ngoài ra, còn có một số giáo viên sẽ phụ trách giảng dạy trực tiếp tại các xưởng nghề của trường. Học sinh trường nghề đệ I cấp chưa có bằng tốt nghiệp tiểu học có thể vẫn tiếp tục theo học các lớp tiểu học song song với các lớp học nghề.

+ Đệ II cấp: Trường nghề đệ II cấp được thành lập theo quyết định của Toàn quyền Đông Dương theo đề nghị của người đứng đầu mỗi xứ và thanh tra giáo dục công. Việc học ở trường nghề đệ II cấp là hoàn toàn miễn phí.

Thông thường học sinh theo học trường nghề đệ II cấp được ở nội trú miễn phí. Tuy nhiên, những học sinh nào nhà ở gần trường thì được khuyến khích theo học ngoại trú hoặc bán trú.

  • Chương trình học ở trường nghề bao gồm: tiếng Pháp, toán, vẽ kỹ thuật, kỹ nghệ, địa lý, lý và hóa học.

Tuy nhiên, chính sách rộng rãi của Albert Sarraut vấp phải sự chống đối  của giới kiều dân Pháp, vì ông đã tạo nhiều điều kiện cho người Việt theo học Trung học và Đại học. Điều này như thể chuẩn bị cho việc loại người Pháp ra khỏi Việt Nam.

Đến những năm 1920, giáo dục ở Việt Nam đã có những thay đổi cơ bản. Trong thời gian cầm quyền, toàn quyền Merlin đã thực thi một chính sách giáo dục gồm những điểm sau:

  • Tiếng Pháp không bắt buộc học trong các lớp sơ cấp thuộc hệ thống trường tiểu học kiêm bị (trừ các lớp nhất và lớp nhì vẫn học tiếng Pháp theo như quy định của toàn quyền Sarraut trước đây).
  • 3 lớp đầu tiên của bậc giáo dục tiểu học được đổi thành hệ sơ cấp. Sau khi học xong 3 lớp, học sinh sẽ thi lấy bằng sơ học Pháp – Việt. Chỉ những học sinh có bằng sơ học này mới có thể tiếp tục theo học những lớp còn lại của bậc giáo dục tiểu học.

Thành lập 2 trường trung học ở Sài Gòn và Hà Nội cho học sinh Việt Nam theo học (trường Bưởi và trường Pétrus Ký).

Đến lượt mình, Toàn quyền Alexandre Varenne (nhiệm kỳ 1925-1928) đã cố gắng phục hồi các trường học ở các xã và điều chỉnh chương trình học cho phù hợp với từng dân tộc và ngôn ngữ. Varenne cũng tập trung vào việc nâng cao khả năng giảng dạy của giáo viên, đồng thời cố gắng thu hút các giáo viên giỏi hơn đến từ Pháp và tăng lương cho giáo viên. Varenne dành nhiều chỗ hơn cho việc dạy và học chữ Hán.

Ở Nam Kỳ, giáo dục sơ cấp được coi là bắt buộc kể từ năm 1927. Nhưng từ giáo dục sơ cấp đến giáo dục tiểu học, học sinh phải trải qua các kỳ thi hết sức khó khăn và các kỳ thi này có thể loại mất 9/10 số học sinh. Ấy thế mà ở bậc tiểu học, học sinh vẫn phải trải qua 1 kỳ thi nữa mới được tốt nghiệp. Dù giáo dục sơ cấp bị bắt buộc từ năm 1927, thế nhưng 7 năm sau đó,  không tới 1/3 trẻ em trong độ tuổi đến trường được hưởng chương trình giáo dục sơ cấp.

Vào năm 1930(6), trong 1.419 xã thuộc Nam Kỳ, có 1.591 trường công lập với 250 giáo viên người Pháp và 3.800 giáo viên người Việt, và tháng 6 năm 1930 có 138.330 học sinh ghi danh học. Về khối tư thục, cũng trong năm 1930, số học sinh ghi danh học tại các trường tư thục là 32.543, như vậy tổng số học sinh ghi danh học tại các trường công lập và tư thục là 170.873 học sinh. Trong khi đó, số liệu thống kê cho thấy năm 1930 ở Nam kỳ có hơn 4 triệu dân. Theo số liệu thống kê này, thì tỷ lệ dân số đến trường nói trên là quá thấp, mặc dù đã có một số tiến bộ về mặt số lượng trong vài thập niên của đầu thế kỷ 20.

Có thể nói, chính quyền Pháp đã đầu tư rất lớn vào lĩnh vực giáo dục ở Nam kỳ. Tuy nhiên, kết quả mang lại đã không làm cho giới cầm quyền hài lòng. Số lượng trường lớp, học sinh thì nhiều mà chất lượng giáo dục lại không cao. Điều này ít nhiều đã gây nên một tình trạng mất cân bằng giữa số lượng và chất lượng giáo dục của giới trí thức trong xã hội Việt Nam nói chung và Nam kỳ nói riêng. Do đó, ở Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 20 đã nổ ra rất nhiều phong trào chống Pháp, chống lại chính sách giáo dục mang tính truyền bá tư tưởng Pháp và xóa bỏ truyền thống dân tộc của người Việt Nam.

Vì vậy, sau khi từ Pháp trở về, Hoàng đế Bảo Đại đã bắt đầu khôi phục lại tổ chức giáo dục ở Việt Nam, bằng cách đưa nền giáo dục ở Trung kỳ và Bắc kỳ ra khỏi sự quản lý của của người Pháp. Ngày 10/9/1932[7], Bảo Đại ban hành Dụ  tái lập lại Bộ Quốc gia Giáo dục và giao cho Phạm Quỳnh giữ chức Bộ trưởng. Cuộc cải cách giáo dục do Bảo Đại tiến hành bắt đầu từ tháng 3/1933 đến tháng 6/1934 đánh dấu bằng sự chuyển quyền quản lý bậc giáo dục tiểu học từ tay người Pháp sang triều đình Huế. Các trường làng sẽ được thành lập, xây dựng từ nguồn kinh phí của làng xã. Lương bổng của giáo viên cũng do ngân sách làng xã chi trả. Người Pháp lúc này chỉ quản lý về mặt chuyên môn sư phạm.

Từ năm 1942-1945, ở Việt Nam ngoài sự quản lý của chính quyền Pháp, người Việt còn chịu sự bành trướng của quân Nhật. Để tuyên truyền sự ảnh hưởng của Pháp trước Nhật ở Đông Dương, Toàn quyền Decoux đã sử dụng giáo dục làm công cụ đắc lực cho việc này. Ở trường học, học sinh bắt đầu làm quen với các môn học về thể chất như bóng đá, bóng chuyền, quần vợt… đặc biệt lần đầu tiên trong lịch sử giáo dục Việt Nam, môn lịch sử được người Pháp nhấn mạnh và phổ biến rộng rãi trong trường học.

Nhìn chung, tình hình giáo dục của Việt Nam, cụ thể là ở Nam kỳ từ những ngày đầu thực dân Pháp xâm lược cho đến năm 1945 là một khoảng thời gian dài cho việc chuyển đổi một nền giáo dục truyền thống sang nền giáo dục của phương Tây. Người Pháp thực thi chủ trương phát triển giáo dục để mở mang dân trí cho người bản địa không ngoài mục đích cai trị và khai thác nguồn lợi ở thuộc địa. Tuy nhiên, với việc hủy bỏ hoàn toàn nền giáo dục truyền thống, với chữ Hán làm chủ đạo trong các trường, đến sự tiếp nhận một nền giáo dục mới, một nền giáo dục được xem là văn minh, hiện đại của phương tây, đã góp phần thúc đẩy sự phát triển và tạo dựng một nền tảng cơ bản cho giáo dục Việt Nam hiện tại.

Tài liệu tham khảo:

  1. Rapport du Directeur du service de l’enseignement sur l’instruction publique en Cochinchine en 1860-1886. HS số IA7/231(12) phông Thống đốc Nam kỳ – Trung tâm LTQGII.
  2. Décision N. 282 du 17/11/1874 du Contre – Amiral Gouverneur règlementant le service de l’instruction publique en Cochinchine. Công báo Nam kỳ thuộc Pháp – Trung tâm LTQGII.
  3. Décision No.55 du 17/3/1879 du Contre – Amiral Gouverneur portant nouvelle organisation du service de l’instruction publique en Cochinchine. Công báo Nam kỳ thuộc Pháp – Trung tâm LTQGII.
  4. Dương Như Đức, Education in Vietnam under the French domination, 1862-1945.
  5. Arreâteù du 21/12/1917 du Gouverneur geùneùral de l’Indochine promulguant le Reøglement geùneùral de l’Instruction publique en Indochine. Trang 607, Coâng baùo Ñoâng Döông.
  6. Rapport au Conseil de Gouvernement en 1930 – Nxb Viễn Đông – Hà Nội.
  7. Dương Như Đức, Education in Vietnam under the French domination, 1862-1945.
  8. Một tư liệu lịch sử giáo dục sau cách mạng tháng 8-1945. Tạp chí Xưa và Nay, số 319, tháng 11/2008.
  9. Rapport du Directeur du service de l’enseignement sur l’instruction publique en Cochinchine en 1890. HS số IA7/231(12) phông Thống đốc Nam kỳ – Trung tâm LTQGII.
  10. Nguyễn Anh, Vài nét về giáo dục ở Việt Nam từ khi Pháp xâm lược đến Chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Tạp chí NCLS số 98(5/1967).

    11. Nguyễn Thế Anh, Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ, Nxb Trung tâm sản xuất học liệu – Bộ Văn hóa Giáo dục Thanh niên – 1974.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *