1. Nhận định của Mỹ – chính quyền Sài Gòn về tình hình chiến trường miền Nam năm 1967
Sau các chiến thắng của Quân giải phóng ở Bình Giã, Ba Gia, Phước Long – Đồng Xoài, đến năm 1965, tình hình chiến trường miền Nam ngày càng chuyển biến nhanh chóng. Trên chiến trường, quân ngụy ngày càng rơi vào tình thế bị động, chiến lược chiến tranh đặc biệt về cơ bản bị phá sản.
Báo cáo gửi Nhà Trắng của phái đoàn Mc Namara và Maxwell Taylor tháng 4/1965 cho thấy: “Tình hình miền Nam Việt Nam nghiêm trọng và sẽ nghiêm trọng hơn nữa, quân đội Việt Nam Cộng hòa không đủ sức đương đầu với Việt cộng, tương quan lực lượng ở mức báo động, quyền chủ động đã về tay Cộng sản”([1]). Westmoreland cũng thừa nhận: “Hà Nội khuynh đảo ½ Nam Việt Nam, chính phủ Sài Gòn sắp sụp đổ, hành quân cấp quân đoàn của Cộng sản có thể mở ở cả 4 vùng chiến thuật, hành quân cấp tiểu đoàn mở ở khắp các tỉnh miền Nam Việt Nam, rối loạn về chính trị, yếu hèn về chính quyền, sa sút về quân đội”([2]).
Chính vì vậy, Tổng thống Jonhson đã ra thông điệp: “Mỹ phải có mặt ở Nam Việt Nam vì nước bạn yêu cầu, vì phải giữ cam kết 10 năm trước đây, vì an ninh của bản thân nước Mỹ và hòa bình châu Au”([3]).
Thực hiện “nghĩa vụ cao cả đó” ngày 8/5/1964, Mỹ dựng lên sự kiện Vịnh Bắc bộ, lấy cớ đưa quân viễn chinh Mỹ và chư hầu vào miền Nam Việt Nam, đồng thời tiến hành chiến tranh leo thang phá hoại miền Bắc, thực hiện chiến lược chiến tranh đặc biệt với hy vọng giành được quyền chủ động ở miền Nam Việt Nam.
Đến cuối năm 1965 số quân Mỹ đã tăng từ 32.000 quân lên 186.000 quân và nhịp độ tăng quân ngày càng khẩn trương. Đến cuối năm 1967, số quân Mỹ và chư hầu (được chính quyền Sài Gòn gọi là Quân viện Thế giới Tự Do) tham chiến ở Việt Nam đạt 557.774 quân, gồm:
- Hoa Kỳ: 497.498
- Đại Hàn: 48.839
- Australia: 6.597
- Thái Lan: 2.242
- Philipin: 2.021
- New Zeland: 534
- Tây Ban Nha: 13
Cộng với lực lượng quân sự của Việt Nam Cộng hòa năm 1967 có 634.475 quân chủ lực, 141.345 bán quân sự ([4]) tạo thành một lực lượng đông đảo với 1.333.564 người.
Với số quân hùng hậu đó, Mỹ – ngụy thực hiện chiến lược “tìm diệt” ở miền Nam Việt Nam gồm 3 giai đoạn, liên tiếp mở các cuộc hành quân càn quét lớn nhỏ vào căn cứ đầu não và vùng giải phóng của ta.
Chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 1967, Mỹ – nguỵ đã thực hiện “1.701 cuộc hành quân cấp tiểu đoàn trở lên([5])”, hơn 1.000 cuộc hành quân cấp đại đội.
Đến những tháng cuối năm 1967, hoạt động quân sự của Mỹ – nguỵ càng được đẩy cao hơn. Hai tháng 11 và 12/1967, tổng số cuộc hành quân của Mỹ – nguỵ gần đạt 50% so với 6 tháng đầu năm (“821 cuộc hành quân cấp tiểu đoàn trở lên([6])”).
Chính phủ Mỹ tin rằng, bằng những cuộc hành quân càn quét với sự đánh phá ác liệt ác liệt trong năm sẽ giành được thế chủ động ở chiến trường miền Nam.
Riêng năm 1967, với “nỗ lực và thành quả hành quân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa và Quân viện Thế giới Tự Do… liên tục mở các cuộc hành quân phá vỡ những chiến khu C, D, Mật khu Bời Lời, Hố Bò”…; cùng với việc sử dụng “53 tiểu đoàn chủ lực quân, 177 đại đội địa phương quân và 549 trung đội nghĩa quân trực tiếp yểm trợ xây dựng nông thôn, trợ giúp 552 đoàn cán bộ xây dựng nông thôn([7])”…; cộng thêm việc đẩy cao cường độ hoạt động phá hoại của không quân và hải quân, chỉ riêng năm 1967, không quân đạt hiệu xuất “300.188 phi xuất”, trong đó “B52 là 7.760 phi xuất([8])”, hoạt động tuần tiễu và bắn phá của hải quân cũng đạt 111.634 lần([9]); đồng thời sử dụng hóa chất khai quang phá hủy 84.346 mẫu mùa màng; 5.382 km hai bên trục đường giao thông, 263 căn cứ quân sự([10]) của Quân giải phóng.
Với cường độ hoạt động như vậy, ngụy quyền cho rằng riêng năm 1967 đã làm tiêu hao khoảng 1/3 lực lượng của Việt cộng (95.494 người trên tổng số 321.000 người so với năm 1966 tăng 52%)([11]). Từ đó nhận định rằng: “Mặc dù duy trì sự xâm nhập và tuyển mộ tại địa phương, nhưng sự tổn thất ngày càng gia tăng nên quân số các đơn vị của Việt cộng chỉ đạt 70%” và “tinh thần cán binh Việt cộng cũng có nhiều suy sụp”([12]).
Mặc dù Việt Nam Cộng Hòa đã phải thừa nhận sự tổn thất không nhỏ trong các hoạt động quân sự. Riêng năm 1967, theo bảng tổng kết tình hình quận sự của Võ phòng – phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng Hòa thì: lực lượng Mỹ – ngụy bị loại khỏi vòng chiến 111.512 tên, cộng với 80.436 tên đào ngũ, 28 tàu và 488 phi cơ bị hư hại (riêng số phi cơ Hoa Kỳ bị bắn hạ tại miền Bắc là 269 chiếc),… nhưng ngụy quyền Sài Gòn vẫn tin tưởng đã “kiểm soát được 10.401.698([13])” dân số và làm chủ được tình hình.
Về phía cách mạng, thắng lợi oanh liệt của quân dân ta trên cả hai miền đất nước đã tác động mạnh đến toàn cục diện chiến trường, nhất là từ sau mùa khô lần thứ hai 1966-1967, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đứng trước triển vọng to lớn.
Phong trào đấu tranh phản đối chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam ngày càng phát triển mạnh mẽ trên khắp thế giới và ngay trong lòng nước Mỹ. Trong khi đó, nội bộ chính trường Mỹ bộc lộ nhiều sự chia rẽ sâu sắc, đặc biệt nhạy cảm trong thời điểm cuộc tranh cử chiếc ghế Tổng thống Mỹ đang diễn ra.
Trong điều kiện đó, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp, trên cơ sở nhận định tình hình đã ra chỉ thị mở cuộc tiến công đông xuân 1967-1968, tiến tới Tổng công kích – Tổng khởi nghĩa. Tháng 12-1967, Bộ Chính trị sau khi bám sát, phân tích chính xác động thái chiến trường, tình hình nước Mỹ và thế giới, đánh giá tương quan lực lượng ta địch, đi đến kết luận: “Điểm cơ bản của tình hình vẫn là tang đang ở thế thắng, thế chủ động và thuận lợi, địch đang ở thế thua, thế bị động và khó khăn. Tình hình ấy cho phép ta chuyển cuộc chiến tranh sang một thời kỳ mới, thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định”([14]).
Từ đó, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Cí Minh quyết định: “… động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất bằng phương pháp tổng công kích – tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định”([15])
2. Phản ứng của cơ quan trung ương Sài Gòn trong dịp Tết Mậu thân 1968
Thực hiện tinh thần chỉ đạo của Trung ương Đảng, tháng 1/1968, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận giải phóng miền Nam Việt phát lệnh tấn công, nêu lên nhiệm vụ cụ thể của Tổng công kích – tổng khởi nghĩa:
- “Tiêu diệt nhiều sinh lực địch, đánh bại quân Mỹ và chư hầu, đánh tan hết ngụy quân.
- Đánh đổ tất cả ngụy quyền các cấp, kiên quyết trừng trị bọn Việt gian đầu sỏ và ác ôn.
- Thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân ở các cấp, ra sức bảo vệ chính quyền, kiên quyết đập tan mọi sức phản kích của địch bất cứ trong tình huống nào”([16]).
Kế hoạch tác chiến được vạch ra chia làm 3 đợt, với hướng tiến công chiến lược chủ yếu là ở các thành phố, thị xã, trung tâm đầu não của Mỹ – ngụy trên toàn miền Nam.
Đợt I từ 31/1 đến 28/2/1968, mở đầu là cuộc tấn công vào Trung tâm huấn luyện hải quân ngụy ở thành phố Nha Trang vào lúc 23 giờ ngày 28-1-1968. Tiếp đó, 0 giờ ngày 29/1/1968, đánh vào thị xã Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên; 1 giờ 35 – Buôn Mê Thuật; 2 giờ – Kontum; 2 giờ 55 – Hội An; 3 giờ 30 – Đà Nẵng; 4 giờ 10 – Quy Nhơn; 4 giờ 40 – Pleiku([17]).
Tại Sài Gòn, 3 giờ rạng ngày 31/1/1968, các tiểu đoàn thuộc 3 trung đoàn 271, 272 và 101 Công trường 9, từ hướng Bắc và hướng Tây đồng loạt tấn công vào các cứ điểm trong khu tam giác Quang Trung – Gò Vấp – Tân Sơn Nhất (bao gồm cả Bộ Tổng Tham mưu). Đồng thời, một cánh quân phân tán thành từng đơn vị độc lập nhanh chóng xâm nhập vào trung tâm Thủ đô Việt Nam Cộng hòa, đánh chiếm những mục tiêu quan trọng về mặt chính trị, quân sự, như Đài phát thanh, dinh Độc Lập, tòa Đại sứ Mỹ, Bộ tư lệnh Hải quân,([18])….
Ngoài ra còn hàng loạt các công sở, đồn bót,… trong nội đô bị tấn công.
Ngày 31/1/1968: 3 giờ 10 ngày 31/1/1968, tư thất Phó Đại sứ Mỹ; 3 giờ 40, chi Cảnh sát “Vị Quang” thuộc Cảnh sát Quốc gia Quận 7; 4 giờ 25, chi cảnh sát Nguyễn Văn Tố; 5 giờ 30, Bộ Tư lệnh Hải quân; 6 giờ 10, chi Cảnh sát Trần Văn Châu; 16 giờ 40, chi cảnh sát Toà Đô chính Sài Gòn; 22 giờ 40, Ty Cảnh sát Quốc gia Quận 9([19]);
Ngày 1/2/1968: 7 giờ 15 ngày 1/2/1968, Ty Cảnh sát Quốc gai Quận 7; 9 giờ 10, chi Cảnh sát Quốc gia Nguyễn Văn Cự; 9 giờ 40, chi Quân Cảnh Mỹ đường Nguyễn Đình Chiểu; 16 giờ 30, chi Cảnh sát Rạch Cát([20]);….
Tại Biên Hòa, cũng trong đêm 30 rạng ngày 31/1/1968, Quân giải phóng pháo kích và rồi tấn công sân bay, hậu cứ liên đoàn 3, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3, tiểu khu Long Bình,([21])….
Đêm 31/1 rạng ngày 1/2/1968, Quân giải phóng tấn công tỉnh lỵ Phước Tuy, sân bay Vạn kiếp, tỉnh lỵ Bình Dương, thị trấn Đức Hòa, quận lỵ Củ Chi và pháo kích vào tỉnh lỵ Hậu Nghĩa, quận Long Thành, Rạch Kiến, Tân Trụ, Bình Phước. Đồng thời tiếp tục chế ngự các vị trí của Hoa Kỳ tại Lai Khê, Củ Chi,([22])…
Cũng trong ngày 31/1/1968, Quân giải phóng đồng loạt tấn công vào các tỉnh lỵ Kiến Hòa, Phong Dinh, An Xuyên, Quảng Trị, Bình Định; ngày 2/2/1968 tấn công Long Khánh, Bạc Liêu; Quảng Nam (3/2/1968), Gò Công (5/2/1968), Định Tường (7/2/1968)([23])
Từ ngày 3/2/1968 đến hết đợt I, Quân giải phóng tiếp tục tiến công các trục giao thông, sân bay, kho tàng và đánh địch phản kích.
Chỉ bằng ¼ lực lượng của Mỹ – ngụy nhưng Quân giải phóng đã làm ngụy quyền Sài Gòn choáng váng, chính quyền Mỹ bàng hoàng.
Kết thúc đợt I với quyết tâm cao nhất, sẵn sàng chấp nhận ác liệt, hy sinh, quân dân ta đã giáng cho địch một đòn choáng váng hơn bất kỳ thời kỳ nào trước đây về cả quân sự và chính trị. Về quân sự, đây là lần đầu tiên, Quân giải phóng tấn công trực diện vào cơ quan đầu não của Mỹ – ngụy ở các đô thị, đồng loạt tấn công bất ngờ vào sào huyệt, vào cơ quan đầu não của Mỹ – ngụy. Tướng Westmoreland, người luôn lạc quan vào sức mạnh của quân đội Mỹ đã phải thừa nhận: “Nói theo quan điểm thực tế thì chúng ta phải công nhận là đối phương đã đánh cho chính phủ Nam Việt Nam một cú đấm nặng nề, họ đã đưa chiến tranh vào các thành phố, các đô thị, đã gây thương vong, thiệt hại…”([24]).
Đó thật sự là một đòn “sấm sét” làm rung chuyển cả nước Mỹ và chấn động dư luận thế giới, thúc đẩy mạnh mẽ phong trào nhân dân Mỹ và nhân dân thế giới phản đối chiến tranh Việt Nam. Nhiều nghị sĩ Mỹ lên tiếng đòi xét lại chính sách của Mỹ ở Việt Nam, nước Mỹ bị chia rẽ sâu sắc và đã đưa nó trở thành “một cuộc chiến tranh trong lòng nước Mỹ”, như chính giới Mỹ thừa nhận.
Trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy, yếu tố bí mật, bất ngờ trở thành nhân tố quyết định thắng lợi. Để có được Mậu Thân 1968, Quân giải phóng đã huy động một lực lượng cả quân sự và chính trị rất lớn, từ bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, đặc công, biệt động, pháo binh, dân quân du kích và phong trào của quần chúng,… một sự chuẩn bị hết sức khẩn trương mà nếu không kể cuộc tiến công và nổi dậy xuân 1975, thì chưa bao giờ có một khí thế như vậy. Trong khi đối phương lại không hề hay biết, hầu hết các báo cáo, nhận định của Mỹ – nguỵ về cuộc tổng tiến công và nội dậy của Quân giải phóng đều hình thành sau khi các đợt tổng công kích của Quân giải phóng đã kết thúc.
Theo báo cáo số 0140/QĐ3/TM/P2/I/K của Phòng 2, Bộ Tham Mưu, Quân đoàn III, Quân lực Việt Nam Cộng hòa ngày 5/3/1968 (cũng là sau khi kết thúc đợt I Mậu Thân 1968), thì “cho đến những ngày cuối tháng Giêng 1968, chiến cuộc trên toàn miền Nam nói chung, và tại vùng 3 chiến thuật nói riêng vẫn diễn tiến bình thường”([25]).
Từ cuối năm 1967, Mỹ – ngụy đã rơi vào thế nghi binh của Quân giải phóng. Đến tháng 10/1967, Quân giải phóng rầm rộ phát động chiến dịch Đông Xuân, tập trung gần như toàn bộ khối chủ lực với chiến trường chính trong vùng Lộc Ninh và Bố Đức. Tháng 12/1967, Quân giải phóng vẫn “chứng minh” cho đối phương thấy nỗ lực dịch chuyển sang chiến khu Dương Minh Châu chống lại cuộc hành quân Yellow-Stone. Và đến ngày 1/1/1968, nghĩa là chỉ còn đúng một tháng trước khi cuộc tổng tiến công nổ ra, chiến dịch Đông Xuân 1967-1968 vẫn tiếp diễn bình thường, Công trường 9 mở cuộc tấn công quy mô vào Lữ đoàn 3, Sư đoàn 25 Mỹ tại suối Bà Chiêm. Đồng thời duy trì các cuộc tấn công vào Tân Uyên (ngày 6/1/1968), tỉnh lỵ Hậu Nghĩa (9/1/1968)([26])….
Ngày 25/1/1968, trong phiên họp Hội đồng Tổng trưởng do Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu chủ toạ, bộ máy quân sự của nguỵ quyền vẫn dự đoán “trong những ngày sắp tới, có thể Cộng sản sẽ mở các trận đánh quy mô ở vùng giới tuyến và vùng Cao nguyên, đặc biệt là Khe Sanh”([27])
Và khi sự chuẩn bị của ta đã hoàn tất, Bộ Chỉ huy tiền phương được thành lập, ngụy quyền Sài Gòn vẫn chưa nhận ra nguy cơ Sài Gòn bị tấn công. Cho mãi sau này, khi cuộc tổng tiến công đợt I của Quân giải phóng kết thúc, trong báo cáo mật của Bộ tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng Hòa ngày 05/3/1968 mới đưa ra: “khi có quyết định của TƯC (Trung ương Cục) cải tổ lãnh thổ chung quanh Sài Gòn thành 5 phân khu và 2 vùng đặc biệt… dưới quyền chỉ huy trực tiếp của một Bộ Chỉ huy tiền phương R…, thì lúc đó mới chắc chắn được rằng Việt cộng sẽ đánh thẳng vào Thủ đô Sài Gòn với một lực lượng to lớn ngoài ước đoán của ta. Sự cải tổ lãnh thổ này được hiểu biết đúng với tầm quan trọng của nó và đã được giải đoán rằng sẽ cho phép Việt cộng có được sự thống nhất chỉ huy trong một mưu toan chiếm cứ Thủ đô, đồng thời với việc cướp chánh quyền Trung ương bằng vũ lực,…. Đến nay thì quá rõ ràng rằng tổ chức lãnh thổ mới này nhằm mục đích (có thể là duy nhất) là phục vụ cho tổng tấn công xuân Mậu Thân mà Việt cộng đặt trọn niềm hy vọng rằng sẽ thu đoạt thắng lợi hoàn toàn trong việc giải quyết cuộc chiến tranh miền Nam.”([28])
Về thời điểm cuộc tổng tấn công cũng làm cho đối phương bất ngờ, Mỹ – ngụy không thể nào tin nổi, chỉ trong một thời gian ngắn ngủi như vậy, lại liên tiếp phải chống trả với hàng loạt cuộc tấn công càn quét quy mô của ngụy quân Sài Gòn và quân đồng minh mà Quân giải phóng vẫn có thể mở một cuộc tổng tiến công lớn như vậy. Trong báo cáo ngày 5/3/1968, Phòng 2, Bộ Tham mưu Quân đoàn 3, Việt Nam Cộng hòa đã phải “thốt” lên: “Có một điều lạ nhất là Việt cộng đốt giai đoạn để thực hiện cuộc tổng tấn công vào lúc mà không ai ngờ có thể bắt đầu quá sớm như vậy. Đây có phải là cuộc tổng khởi nghĩa, tổng công kích mà Việt cộng đã nói nhiều năm nay hay không, thì đó là điều có thể được xem là chắc chắn 100%, nhưng ngày được chọn làm ngày N để thực hiện vì quá sớm nên còn khá nhiều điểm bí ẩn chưa được giải thích thỏa đáng”([29]).
Do hoàn toàn bị bất ngờ, nên trong một hai ngày đầu của đợt I, hầu như ngụy quân, ngụy quyền không hề có phản ứng. Lời kể của Trần Văn Đôn trong “Việt Nam nhân chứng” về những ngày Tết Mậu Thân 1968 đã cho thấy phản ứng của nguỵ quân, nguỵ quyền Sài Gòn trước cuộc tấn công của Việt cộng. “Mồng một Tết, lính Việt cộng vào đến Bộ Tổng Tham mưu mà không ai hay. Ơ Tổng Tham mưu, cổng chính phía trước là nơi dành cho sĩ quan ra vô. Việt cộng đã tìm hiểu kỹ nên cho một toán vào cổng sau, lọt vô khỏi cổng sau hô lớn: “Đảo chánh! Đảo chánh!” Lính gác ở Tổng Tham mưu tưởng thật, để chúng lọt vô trong. Lúc đó, toán khác của chúng đã lọt vô công trước phía cư xá Tướng lãnh, toán này bắn trúng một xe jeep Mỹ nên Mỹ báo động. Kịp thời lính gác Tổng Tham mưu ngăn chặn được sự xâm nhập của chúng, đồng thời tướng Nguyễn Đức Thắng cho bắn trọng pháo về phía cổng hậu. Lúc ấy binh sĩ Tổng Tham mưu mới cầm súng chiến đấu. Tướng Loan vội trình cho Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ, ông Kỳ loan tin trên Đài phát thanh nên các nơi nhứt là ở miền Tây mới kịp thời phòng thủ đẩy lùi Việt cộng. Còn các tỉnh miền Trung bị Việt cộng tấn công đồng loạt, không kịp chống trả…. Mồng hai Tết, ông Thiệu dùng trực thăng về Sài Gòn (trong những ngày Tết, Tổng thống Thiệu về nhà vợ ở Mỹ Tho)”([30]).
Phải đến ngày 2/2/1968 (tức 3 ngày sau cuộc Tổng tiến công nổ ra), “Ủy ban Quốc phòng Thượng nghị viện” mới “nhóm phiên họp khẩn cấp tại trụ sở Thượng Viện để thảo luận về tình hình an ninh trong toàn quốc – nhất là tại Thủ đô Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định trong mấy ngày gần đây”([31]). Và phiên nhóm họp cũng không thể đưa ra được một đường hướng nào thật sự có ý nghĩa để cứu vãn tình thế mà chỉ thống nhất quyết định yêu cầu chính phủ:
- “Thi hành và áp dụng triệt để lệnh thiết quân luật 24/24 giờ.
- Vãn hồi an gấp rút an ninh và trật tự tại các thành phố trong toàn quốc và đặc biệt tại vùng Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định.
- Thành lập gấp rút một Uy ban hỗn hợp An ninh Quốc phòng giữa Lập pháp và Hành pháp để cấp thời đối phó với tình thế, nhất là tại Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định”([32]).
Về phía chính phủ, để đối phó với tình hình cũng không đưa được ra một giải pháp sáng sủa hơn, phải tới “ngày 3/2/1968, lúc 10 giờ, Tổng thống đã triệu tập một Hội nghị khẩn cấp thứ 2 tại Dinh Độc Lập, có Phó Tổng thống, Thủ tướng, một số Tổng trưởng và Đại tướng Tổng Tham mưu trưởng Quân lực Việt Nam Cộng hòa tham dự”. Trong Hội nghị này, cũng chưa thấy có một kế hoạch quân sự nào có thể đẩy lùi được Việt cộng, mà mới chỉ quyết định cho ra đời Trung tâm điều hành phối hợp cấp Trung ương do Phó Tổng thống trực tiếp chỉ huy để “điều khiển chương trình cấp bách nói trên”.
Nhờ những biện pháp cấp bách này, mà đến cuối tháng 2/1968, mặc dù sức ép của Quân giải phóng đã giảm, nhưng tình hình trong các thành phố ở miền Nam vẫn hết sức căng thẳng. Tại Đô thành Sài Gòn, các vị dân biểu của chế độ phải “phàn nàn lệnh giới nghiêm quá chặt chẽ không phân biệt bạn và thù” và “và đều xin chính phủ can thiệp để được cấp giấy thông hành trong giờ giới nghiêm ngõ hầu việc di chuyển được dễ dàng”.([33]) Trong khi Tổng Nha Cảnh sát ra lệnh kiểm tra dân số, và xét hỏi gắt gao “giấy tờ ngay đối với các dân biểu”. Còn các vị dân biểu thì lo sợ, xin chính phủ “được cấp vũ khí để tự vệ và nếu có thể cấp mỗi vị dân biểu một vệ sĩ”([34]).
Về quân sự cũng không khả quan, trong những ngày Quân giải phóng tổng tiến công, Bộ Quốc phòng và Võ phòng Phủ Thủ tướng chỉ ghi nhận được từ các nơi hơn 2000([35]) cuộc tấn công của Việt cộng mà không xác định rõ được đối phương là ai, từ đâu tới.
Cùng vì bất ngờ, Bộ Quốc phòng đã không đề ra được kế hoạch quân sự nào rõ ràng mà ngược lại bắt đầu có sự đẩy đưa trách nhiệm giữa Việt Nam Cộng hoà và Mỹ.
Mặc dù lúc này, so sánh tương quan lực lượng hai bên ¼ nghiêng về phía Việt Nam Cộng hòa. Theo thống kê của chính quyền Sài Gòn, đến tháng 3/1968, lực lượng Mỹ – ngụy ở miền Nam đạt 1.375.747 tên([36]) (trong đó, quân lực Việt Nam Cộng hòa 781.074; Quân viện Thế giới Tự Do: 594.673) so với 271.448 quân của Việt cộng([37]).
Với lực lượng như thế, nhưng phải đến cuối tháng 3/1968, bằng 1.198 cuộc hành quân cấp tiểu đoàn trở lên, Mỹ – ngụy mới “mở rộng phạm vi kiểm soát ra xa các đô thị để cải thiện hệ thống an ninh, mặt khác khai thông và bảo vệ các trục lộ huyết mạnh”([38]).
Trong khi quân đội hoạt động thiếu hiệu quả, thì bộ máy tình báo, phân tích nhận định tình hình của Việt Nam Cộng hoà hoạt động cũng xa xút. Hầu hết các bản nhận định và báo cáo đều được thành lập sau mỗi đợt tấn công của Quân giải phóng, trên cơ sở những tài liệu thâu lượm mà không dựa trên những diễn tiến thực tế của chiến trường. Nên thường có những phân tích, nhận định chậm so với tình hình và sai lệch về thời gian đối với thực tế.
Trong đợt II của cuộc tổng tiến công, nguỵ quyền Sài Gòn nhận định Quân giải phóng tấn công vào tháng cuối tháng 2/1968, trong khi thực tế lại diễn ra vào tháng 5/1968. Và đợt ba, nhận định của nguỵ quyền cho rằng sẽ nổ ra vào tháng 10-11/1968, thậm chí kéo dài qua Tết năm 1969, thì thực tế lại diễn ra vào giữa tháng 8/1968. Do đó, trong cả ba đợt của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968, nguỵ quân, nguỵ quyền dù có sự chuẩn bị nhưng đều bị bất ngờ về thời gian và mục tiêu.
III. Thay lời kết.
Có thể nói đến cuối tháng 2/1968, khi Quân giải phóng đã kết thúc đợt I cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân, chính quyền Sài Gòn vẫn còn “bàng hoàng”, rất lúng túng trong việc đưa ra quyết sách. Đồng thời quá nhạy cảm với diễn tiến chính trị nên ngụy quân, ngụy quyền rất hoang mang. Điều này có thể thấy qua phiên họp của Ủy ban Nội vụ Hạ Nghị viện vào ngày 23/2/1968. Trong phiên họp các dân biểu đã có 2 giờ 30 phút để chất vấn Trung tướng Tổng trưởng Bộ Nội vụ về tình hình và những giải pháp đối phó trước hiện tình đất nước. Còn ông Tổng trưởng Bộ Nội vụ cũng chỉ có thể trả lời chung chung và thừa nhận vẫn chưa phát hiện được tổ chức nào của Cộng sản và “những biện pháp này không ngăn cản địch tấn công được”([39]). Có nghĩa là sau gần một tháng bị Tổng tiến công, chính quyền Sài Gòn vẫn chưa đưa ra được một đối sách nào có thể làm yên tâm các nghị sĩ. Thậm chí, các nghị sĩ còn lo sợ việc bắt giữ một số phần tử Phật giáo có thể làm nguy hại đến an ninh “quốc gia”: “Uy ban. Uy ban cũng yêu cầu chính phủ ra thông cáo minh định thái đội về việc này”.([40])
Bi quan hơn nữa, họ lo sợ bị chính phủ Mỹ bỏ rơi “một dân biểu đã đặt câu hỏi về luồng dư luận cho rằng Hoa Kỳ đã đồng ý để cho Việt cộng tấn công vào Sài Gòn”([41]).
Trong hàng ngũ chóp bu nguỵ quyền Sài Gòn, nhất là các tướng tá quân đội xuất hiện sự hoài nghi về người Mỹ. Nguỵ quyền cho rằng hệ thống tình báo của Mỹ đã biết trước về cuộc tấn công của Việt cộng và đã để mặc cho nó xảy ra. Đồng thời thiếu tin tưởng vào chiến lược của người Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Do dó, đến cuối tháng 3/1968 Nội vụ phàn nàn về cách bắt Thượng tọa Trí Quang (người chính quyền Sài Gòn nghi ngờ là thành phần của Uy ban khởi nghĩa) và yêu cầu được cho tín đồ thăm viếng, nguỵ quân đề ra bản nguyên tắc về việc phối hợp hành quân giữa Việt Nam và Đồng minh. Trong đó quy định, “không chấp thuận đơn vị thuộc Quân lực nước mình đặt dưới quyền chỉ huy hay kiểm soát hành quân của vị chỉ huy đơn vị nước bạn”.([42])
Chuẩn tướng Hoàng Văn Lạc, trong cuốn “Từ biến cố Mậu Thân đến hoà bình Kỷ Dậu” viết năm 1969, đã khẳng định rõ hơn sự hoài nghi này. “nếu Hoa Kỳ nói là họ không biết gì về âm mưu tổng công kích của Việt cộng thì hóa ra cái hệ thống tình báo khổng lồ của họ bao vây cả Việt nam, cả Đông Nam Á và cả thế giới lại bất lực đến nỗi một cuộc bàn tính quy mô giữa Hà Nội và MT GPMN, rồi đến các cấp miền, tỉnh và sự huy động đến 100 ngàn binh sĩ mà họ không hề mảy may biết được hay sao?”([43])
Từ những phản ứng trên đây của chính quyền Sài Gòn có thể khẳng định, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã có một ý nghĩa lớn đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc Việt Nam. Thắng lợi to lớn nhất và quan trọng nhất của Mậu Thân 1968 là, Quân giải phóng đã làm đảo lộn chiến lược chiến tranh xâm lược Việt Nam của Mỹ, tạo bước chuyển biến lớn, thay đổi cục diện chiến trường.
Chính Mỹ – nguỵ cũng phải thừa nhận thắng lợi của Quân giải phóng. Chuẩn tướng Hoàng Văn Lạc năm 1969 nói rằng: “ảnh hưởng của biến cố đã làm kinh hoàng cả Mỹ quốc, gây thêm hoài nghi trong lòng dân chúng Mỹ và cả Thế giới tự do về thắng lợi của Hoa Kỳ trước ngày bầu cử Tổng thống năm 1968”([44]).
Nguỵ quân, ngay sau đợt I đã thừa nhận: “tuy nhiên địch cũng tạm thời rút khỏi thế bị động, đồng thời cũng phá vỡ được một số đồn bót và ấp đời mới làm cho công cuộc xây dựng nông thông bị đình trệ”([45]).
“Trong mấy tháng đầu năm 1968, địch đã thực hiện được những thành quả sau đây:
- Mở được mặt trận Khe Sanh, tổng công kích trong dịp Tết Mậu Thân và những đợt tất công gần đây vào Sài Gòn và khu vực Huế – Đông Hà.
- Sự phối hợp giữa các đơn vị địch và giữa các chiến trường đã được cải thiện.
- Hoả lực yểm trợ địch ngày một gia tăng,…
- Hệ thống tiếp vận từ Bắc vào Nam đã được bành trướng”([46]).
“Địch cũng đã dành lại được thế chủ động chiến lược, tạo uy thế chính trị tại Quốc ngoại”([47]).
Về phía Mỹ, sau Tết Mậu Thân cũng buộc phải ngừng leo thang chiến tranh ra miền Bắc và phải chấp thuận ngồi vào bàn đàm phán tại Paris. Đây là những thắng lợi có ý nghĩa quan trọng, tạo bước ngoặt quyết định cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta đi đến thắng lợi cuối cùng.
TS. NGUYỄN XUÂN HOÀI
[1]-2 Hà Minh Hồng, Lịch sử Việt Nam cận hiện đại (1858-1975), Nxb ĐH QG Tp. HCM, tr. 193
[3] Hà Minh Hồng, Lịch sử Việt Nam cận hiện đại (1858-1975), Nxb ĐH QG Tp. HCM, tr. 194
[4] Bản tổng kết tình hình quân sự năm 1967 của Võ phòng, Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa, hồ sơ 16105, phông Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hoà, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
[5] Báo cáo tổng kết hoạt động hành quân Đệ I, II tam cá nguyệt 1967 của Trung tâm hành quân, hồ sơ 15.828, phông Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hoà, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
[6] Báo cáo tổng kết hoạt động hành quân từ tháng 1-12/1967 của Trung tâm hành quân, hồ sơ 15.828, phông Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hoà, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
[7] Bản tổng kết tình hình quân sự năm 1967 của Võ phòng, Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa, hồ sơ 16105, phông Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hoà, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
[8]-9-10-11-12-13 Bản tổng kết tình hình quân sự năm 1967 của Võ phòng, Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa, hồ sơ 16105, phông Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hoà, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
[9] Bản tổng kết tình hình quân sự năm 1967 của Võ phòng, Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa, hồ sơ 16105, PTTg.
[10] Bản tổng kết tình hình quân sự năm 1967 của Võ phòng, Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa, hồ sơ 16105, PTTg.
ản tổng kết tình hình quân sự năm 1967 của Võ phòng, Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa, hồ sơ 16105, PTTg.
[13] Bản tổng kết tình hình quân sự năm 1967 của Võ phòng, Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa, hồ sơ 16105, PTTg.
[14] Một số văn kiện của Đảng về kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tập II, tr.69.
[15]Nghị quyết Trung ương lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được thông qua tháng 1/1968.
[16] Lệnh tấn công của Đoàn chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tháng 1/1968.
[17] Don Oberdoifer, Tết, Nxb Tổng hợp An Giang – 1988, tr.81
[18] Tổng kết tình hình hàng tuần từ 27/1 đến 9/2/1968 tài liệu kín của Khối Cảnh sát đặc biệt, Nha Tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia, hồ sơ 16360., phông Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hoà, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
[19] Tổng kết tình hình hàng tuần từ 27/1 đến 9/2/1968 tài liệu kín của Khối Cảnh sát đặc biệt, Nha Tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia, hồ sơ 16360., phông Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hoà, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
[20] Tổng kết tình hình hàng tuần từ 27/1 đến 9/2/1968 tài liệu kín của Khối Cảnh sát đặc biệt, Nha Tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia, hồ sơ 16360., phông Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hoà, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
[21] Tổng kết tình hình hàng tuần từ 27/1 đến 9/2/1968 tài liệu kín của Khối Cảnh sát đặc biệt, Nha Tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia, hồ sơ 16360., phông Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hoà, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
[22] Tổng kết tình hình hàng tuần từ 27/1 đến 9/2/1968 tài liệu kín của Khối Cảnh sát đặc biệt, Nha Tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia, hồ sơ 16360., phông Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hoà, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
22-[23] Tổng kết tình hình hàng tuần từ 27/1 đến 9/2/1968 tài liệu kín của Khối Cảnh sát đặc biệt, Nha Tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia, hồ sơ 16360, phông Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hoà, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
[24] Mậu Thân 1968 – cuộc đối chiến lịch sử, tr. 80.
[25] Báo cáo số 0140/QĐ3/TM/P2/I/K của Phòng 2, Bộ Tham Mưu, Quân đoàn III, Quân lực Việt Nam Cộng hòa ngày 5/3/1968, hồ sơ 16096, phông Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hoà, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
[26] Báo cáo số 0140/QĐ3/TM/P2/I/K của Phòng 2, Bộ Tham Mưu, Quân đoàn III, Quân lực Việt Nam Cộng hòa ngày 5/3/1968, hồ sơ 16096, phông Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hoà, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
[27] Biên bản tóm tắt buổi họp Hội Đồng Tổng trưởng ngày 25/1/1968, tài liệu Tối mật, hồ sơ 34, phông Phủ Tổng thống Đệ Nhị Cộng hoà, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
[28] Báo cáo số 0140/QĐ3/TM/P2/I/K của Phòng 2, Bộ Tham Mưu, Quân đoàn III, Quân lực Việt Nam Cộng hòa ngày 5/3/1968, hồ sơ 16096, phông Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hoà, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
[29] Báo cáo số 0140/QĐ3/TM/P2/I/K của Phòng 2, Bộ Tham Mưu, Quân đoàn III, Quân lực Việt Nam Cộng hòa ngày 5/3/1968, hồ sơ 16096, phông Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hoà, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
[30] Trần Văn Đôn, Hồi ký chánh trị – Việt Nam nhân chúng, Xuân Thu 1989, tr.382
[31]-32 Tình hình an ninh, quân sự tại Sài Gòn năm 1968, hồ sơ 555, phông Phủ Tổng thống Đệ Nhị Cộng hoà, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
[32] Hồ sơ 555, phông ĐIICH.
[33] Công điện Mật – Thượng khẩnsố 206-BNV/CT2/PH/M ngày 7/2/1968 của Tổng trưởng Nội vụ về việc đối phó với kế hoạch xâm nhập phá hoại của Việt cộng trong dịp Tết Mậu Thân 1968, hồ sơ 639, phông Phủ Tổng thống Đệ Nhị Cộng hoà, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
[34] Công điện Mật – Thượng khẩnsố 206-BNV/CT2/PH/M ngày 7/2/1968 của Tổng trưởng Nội vụ về việc đối phó với kế hoạch xâm nhập phá hoại của Việt cộng trong dịp Tết Mậu Thân 1968, hồ sơ 639, phông Phủ Tổng thống Đệ Nhị Cộng hoà, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
[35] Bản tóm lược hoạt động trong Đệ I Tam cá nguyệt 1968, hồ sơ 16105, phông Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hoà, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
[36] Bản tóm lược hoạt động trong Đệ I Tam cá nguyệt 1968, hồ sơ 16105, phông Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hoà, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
[37] Bản tóm lược hoạt động trong Đệ I Tam cá nguyệt 1968, hồ sơ 16105, phông Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hoà, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
[38] Bản tóm lược hoạt động trong Đệ I Tam cá nguyệt 1968, hồ sơ 16105, phông Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hoà, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
[39] Biên bản tóm tắt của Uỷ ban Nội vụ Hạ nghị viện ngày 23/2/1968, tài liệu Mật, hồ sơ 639, phông Phủ Tổng thống Đệ Nhị Cộng hoà, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
[40] Biên bản tóm tắt của Uỷ ban Nội vụ Hạ nghị viện ngày 23/2/1968, tài liệu Mật, hồ sơ 639, phông Phủ Tổng thống Đệ Nhị Cộng hoà, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
[41] Biên bản tóm tắt của Uỷ ban Nội vụ Hạ nghị viện ngày 23/2/1968, tài liệu Mật, hồ sơ 639, phông Phủ Tổng thống Đệ Nhị Cộng hoà, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
[42] Bản tóm lược hoạt động trong Đệ I Tam cá nguyệt 1968, hồ sơ 16105, phông Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hoà, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
[43] Hoàng Văn Lạc, Từ biến cố Mậu Thân đến hoà bình Kỷ Dậu, 1969, tr. 58.
[44] Hoàng Văn Lạc, Từ biến cố Mậu Thân đến hoà bình Kỷ Dậu, 1969, tr. 59
[45] Bản tóm lược hoạt động trong Đệ I Tam cá nguyệt 1968, hồ sơ 16105, phông Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hoà, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
[46] Công văn mật số 96/P.THT/VoP/QV/2 của Võ phòng Phủ Thủ tướng ngày 12/6/1968 về ước tính đường lối hoạt động địch trong thời gian tới từ tháng 6-12/1968, hồ sơ 16069, phông Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hoà, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
[47] Công văn mật số 96/P.THT/VoP/QV/2 của Võ phòng Phủ Thủ tướng ngày 12/6/1968 về ước tính đường lối hoạt động địch trong thời gian tới từ tháng 6-12/1968, hồ sơ 16069, phông Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hoà, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
Tin cùng chuyên mục:
Khó khăn và giải pháp khắc phục trong triển khai nhiệm vụ nộp lưu tài liệu lưu trữ số
Thực trạng triển khai công tác lưu trữ điện tử của Ủy ban Dân tộc
Văn học Sài Gòn 1954-1975 những chuyện bên lề
Sài Gòn 1698-1998 Kiến trúc quy hoạch